Luận Văn Yếu tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 - 5

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    [TABLE="width: 100%"]
    [TR]
    [TD="class: rows1, bgcolor: #DEE4FE, align: left"]Yếu tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay (12/1989 - 5/2008)

    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]


    1. Lý do chọn đề tài

    Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới đang có nhiều diễn biến sâu sắc và phức tạp như hiện nay, nghiên cứu cục diện chính trị quốc tế không thể không nghiên cứu địa-chính trị, nghĩa là nghiên cứu sự biến đổi chính trị trong những quy mô không gian địa lý nhất định với tất cả sự tác động qua lại giữa hai nhân tố đó. Cụ thể là việc xác định các nước láng giềng, các khu vực có vị trí trọng yếu với những ý đồ và chiến lược có thể là đối tác quan hệ hoặc là đối tượng đấu tranh . luôn là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hoạch định chiến lược đối ngoại của mỗi quốc gia sao cho phù hợp với tình hình thế giới và khu vực, để phục vụ kịp thời mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt là sau Chiến tranh lạnh, địa-chính trị đã được sử dụng phổ biến hơn để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực.
    Mỹ là một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế và đang ra sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối và làm bá chủ thế giới. Mỹ cũng là một trong những nước thành công nhất trong việc nghiên cứu và vận dụng khoa học địa-chính trị: bắt nguồn từ nhân tố địa lý để khảo sát, phân tích mối quan hệ chính trị quốc tế, từ đó xác định chiến lược an ninh và phát triển quốc gia. Chiến lược toàn cầu của Mỹ là sự vận dụng nội dung của các học thuyết địa-chính trị, đó là: lợi ích an ninh quốc gia không tách rời khỏi các hoạt động chính trị và trong mỗi một thời kỳ lịch sử, trên bản đồ chính trị quốc tế thường có một trung tâm chiến lược mà nếu nước nào khống chế được trung tâm đó thì sẽ chi phối được toàn bộ thế giới. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mục tiêu địa-chính trị của Mỹ chủ yếu nhằm vào đối tượng chiến lược toàn cầu là Liên Xô và châu Âu là “cấu trúc nền” của chính trị quốc tế. Châu Âu là nơi giới lãnh đạo của cả Mỹ lẫn Liên Xô coi là có ý nghĩa hàng đầu đến sự sống còn của quốc gia mình. Sau Chiến tranh lạnh, thực tế cạnh tranh địa-chính trị giữa các nước lớn cho thấy: đại lục Âu - Á đang trở thành “cấu trúc nền” của chính trị quốc tế đầu thế kỷ XXI. Mục tiêu chiến lược đối ngoại của Mỹ là tiếp tục xác lập và duy trì vai trò lãnh đạo đối với thế giới.
    “Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” là một vấn đề thời sự, việc tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện vấn đề này là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc, góp phần phục vụ cho công việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu lịch sử thế giới hiện đại của sinh viên và học sinh.
    Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn đó, chúng tôi thấy rằng vấn đề “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” là đề tài đầy lý thú và đem lại những kết quả hữu ích. Do đó, chúng tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
    2. Lịch sử vấn đề


    Trong những năm gần đây, khái niệm “địa-chính trị” thường được đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Đó là vì quá trình nghiên cứu về chính trị thế giới hiện nay vẫn dựa trên việc phân tích tình hình ở các khu vực, các quốc gia. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất. Để bảo vệ địa vị bá chủ của mình, Mỹ muốn xây dựng trật tự thế giới đơn cực dưới sự chỉ đạo của Mỹ bằng cách bảo vệ cho được vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị ở lục địa Âu - Á. Vì vậy, “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước với nhiều góc độ, phạm vi phân tích và đánh giá khác nhau.
    Năm 1993, John Rennie Short có công trình nghiên cứu “An Introduction to Political Geography” mang tính lý luận về địa-chính trị của trật tự thế giới, địa-chính trị của nhà nước, địa-chính trị của sự tham dự. Tác giả phân tích trật tự thế giới được hình thành từ sự phát triển không đều trong vòng xoáy tư bản chủ nghĩa, thể hiện ở trật tự Bắc - Nam: giữa những nước giàu và nước nghèo, cuộc đối đầu Đông - Tây: giữa hai khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN), sự phát triển và tiêu vong của Liên bang Xô viết, sự nổi lên của những trung tâm quyền lực mới tạo nên một thế giới đa cực. Trong chương địa-chính trị của nhà nước, nội dung đáng chú ý là mối liên hệ giữa nhà nước và trật tự thế giới, phạm vi của mỗi quốc gia, tình trạng căng thẳng giữa các quốc gia - dân tộc hàm chứa quan điểm của mỗi quốc gia dân tộc và nhà nước được nghiên cứu với tư cách là thực thể trong không gian. Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ được tác giả đề cập nhằm minh họa cho những lý luận, chưa phải là một hệ thống nghiên cứu toàn diện, chuyên biệt.
    Năm 2000, Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp có bài “Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa-chính trị thế giới” đăng trên tạp chí Khoa học Chính trị. Bài viết định nghĩa “địa-chính trị là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố địa lý và chính trị” [47, tr.13]. Tư tưởng về địa-chính trị đã có từ rất lâu đời, ngay khi có sự xuất hiện các nhà nước quốc gia-dân tộc, nhưng phải đến nửa sau thế kỷ XIX, địa-chính trị mới trở thành một khoa học độc lập. Các tác giả đã chia quá trình phát triển tư tưởng địa-chính trị thành các giai đoạn chủ yếu sau: giai đoạn từ thế kỷ XIX đến chiến tranh thế giới thứ nhất, giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Bài viết tập trung vào các nhà tư tưởng địa-chính trị nổi tiếng như Alfred Thayer Mahan với luận điểm “việc kiểm soát quyền lực trên biển là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với quyền lực quốc gia, những quốc gia có lối vào trên biển dễ trở thành cường quốc hơn các quốc gia trên bộ”, Halford Mackinder với quan điểm nổi tiếng: “Ai chiếm được vùng Đông Âu thì sẽ chiếm được vùng đất trung tâm (hàm ý nói về nước Nga); ai nắm được vùng đất trung tâm sẽ chỉ huy được hòn đảo của thế giới (đại lục Á - Âu); ai nắm được hòn đảo của thế giới sẽ chi phối được cả thế giới” và Saul Cohen với bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực địa-chiến lược dưới áp lực của các siêu cường, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng địa-chiến lược của hai lãnh địa đối với Mỹ, đó


    là: lãnh địa mậu dịch hàng hải hướng ngoại (Tây Âu, châu Phi, các nước châu Mỹ) và lãnh địa lục địa hướng nội (Liên Xô trước đây, Trung Quốc). Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập đến thuyết “Vùng rìa” (Rim Land) của Nicholas John Spykman, thuyết “Sức mạnh trên không” (Air Power) của Alexander Procofieff de Seversky.
    Năm 1996, NXB Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI” của Maridon Tuareno do Nguyễn Văn Hiến dịch. Bà Maridon Tuareno là một chuyên gia có uy tín ở Pháp về các vấn đề chiến lược và quan hệ quốc tế, đã từng làm cố vấn về các vấn đề chiến lược và quốc phòng cho thủ tướng Pháp Misen Rôca trong những năm 1988 - 1991. Cuốn sách cho ta một bức tranh sinh động và chi tiết về những thay đổi diễn ra trên thế giới sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, và những thay đổi ấy được phân tích rất cặn kẽ trong bối cảnh lịch sử và bối cảnh khu vực của chúng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một lý thuyết về quan hệ quốc tế hiện đại mà chúng ta không thể đồng tình: theo bà, với sự chấm dứt của “trật tự Yanta”, thế giới sẽ là một thế giới chịu sự chi phối của châu Âu, của sức mạnh và các giá trị của châu Âu.
    Năm 2004, NXB Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Nước Mỹ nửa thế kỷ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh” của Thomas J. McCormich do Thùy Dương dịch. Trọng tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh là thực hiện kế hoạch bá quyền Mỹ. Chiến tranh lạnh là một phần của kế hoạch bá quyền, một phần quan trọng trong kế hoạch đó là việc ngăn chặn và chế ngự Liên Xô, việc ràng buộc nước Anh vào một “mối quan hệ đặc biệt”, việc kiềm chế Đức và Nhật Bản, cũng như việc kiềm chế chủ nghĩa dân tộc cách mạng ở Thế giới thứ ba bằng “củ cà rốt và cây gậy” cũng chỉ là một phần của nhiệm vụ này. Mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc song Chính phủ Mỹ vẫn tin rằng cấu trúc của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đòi hỏi phải có một trung tâm bá quyền để đặt ra và cưỡng chế thi hành các luật lệ quốc tế của chủ nghĩa tư bản tự do, và chỉ Mỹ mới có sức mạnh để đóng vai trò đó.
    “Bàn cờ lớn” là tác phẩm tiêu biểu của Zbigniew Brzezinski về địa-chính trị thế giới, mô tả và lý giải chiến lược toàn cầu của nước Mỹ trong thế kỷ XXI dưới lăng kính lợi ích chính trị và khả năng duy trì vị trí siêu cường của quốc gia này. Theo Brzezinski, trên “bàn cờ lớn” đó, lục địa Âu - Á là nơi sẽ diễn ra những tranh chấp chủ yếu và chính tại nơi đó, Mỹ sẽ khẳng định được vị trí lãnh đạo thế giới của mình. Vì vậy, đảm bảo vị trí lãnh đạo của Mỹ trong NATO, mở rộng tổ chức này về địa lý và phạm vi tác chiến, duy trì sự hiện diện quân sự và ảnh hưởng tuyệt đối của Mỹ tại các khu vực then chốt như Trung Đông, Viễn Đông (Nhật Bản và Hàn Quốc), tăng cường xâm nhập những địa bàn chiến lược then chốt (Trung Á, Đông Nam Á) sẽ là những bước đi mang tính “chiến thuật” nhằm đảm bảo không một đối tượng nào có thể nổi lên tranh giành quyền lãnh đạo thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, trong cuốn sách này, Brzezinski đã đánh giá chưa đúng vai trò của Trung Quốc, tuyệt đối hóa vai trò của Mỹ trong trật tự thế giới ngày nay. Brzezinski đã gọi tên bàn cờ lớn là “bàn cờ Âu - Á” để giới hạn không


    gian mô tả của mình. Sự quá chú trọng đến khu vực Âu - Á đã khiến cho quan điểm về thế giới mới của Brzezinski thiếu đi tính toàn diện, dù không hẳn là phiến diện. Cho dù vai trò của lục địa Âu - Á trong việc hình thành trật tự thế giới có lớn đến mức nào thì cũng không thể xem nhẹ các khu vực khác (châu Phi, châu Mỹ).
    Năm 2003, Viện Thông tin Khoa học xã hội xuất bản công trình nghiên cứu “Khủng bố và chống khủng bố với vấn đề an ninh quốc tế”. Trong công trình, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về khủng bố: “Khủng bố là những hành vi bạo lực không tuyên bố nhằm vào những mục tiêu không được trang bị các phương tiện quân sự hoặc không được báo trước để tự bảo vệ mình, nhằm mục đích gây sức ép đối với nhà cầm quyền về mặt chính trị” [80, tr.24], đồng thời phân tích nguyên nhân của chủ nghĩa khủng bố nằm ở mối quan hệ giữa nhà nước với dân chúng, giữa những người cai trị với người bị cai trị, giữa khu vực trung tâm và khu vực ngoại vi, vì vậy xây dựng tốt các mối quan hệ này sẽ có cơ hội loại trừ được chủ nghĩa khủng bố. “Vụ chấn thương ngày 11/9 đòi hỏi phải thực hiện nhiều công việc tái cơ cấu về mặt địa-chính trị và thể chế”, cụ thể là Mỹ cần “tập hợp rộng rãi các quốc gia thành một mặt trận hợp tác linh hoạt chống khủng bố; trợ giúp về mặt kinh tế, chính trị, quân sự để ổn định khu vực cho vùng Trung Đông, Trung Á, thậm chí cho cả Đông Nam Á; khuyến khích dân chủ hóa đối với các chế độ bị nhiều nước phản đối đồng thời với cả những nước phương Tây ủng hộ họ; cuối cùng cần hợp nhất dân nhập cư đến phương Tây đang ngày càng gia tăng do logic toàn cầu hóa” [80, tr.154-
    155]. Thông qua cuộc chiến chống khủng bố, Mỹ đã củng cố được vị trí địa-chính trị của mình.

    Năm 2003, Nguyễn Đình Luân có bài nghiên cứu “Tìm hiểu logic địa-chính trị trong chiến lược đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh” đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế. Bài viết phân tích tầm quan trọng của địa-chính trị trong ván bài của các nước lớn, làm rõ khái niệm “cấu trúc nền” và các “cửa ô” của cơ cấu địa-chính trị đầu thế kỷ XXI. Quan trọng nhất là Nguyễn Đình Luân đã có những nhận định về các tính toán địa-chính trị của Mỹ, cụ thể như việc Iraq tiến công Kuwait tạo cơ hội cho Mỹ đóng quân lâu dài ở Trung Đông, quá trình Đông tiến của NATO với mục tiêu vẽ lại bản đồ địa- chính trị ở châu Âu, khủng hoảng Balkan và cuộc chiến Kosovo với ý đồ khống chế bán đảo Balkan, sự kiện 11/9 và cuộc chiến chống khủng bố với mục tiêu biến “nguy cơ” thành “thời cơ” tiến quân vào Trung Á, thay đổi bàn cờ chính trị ở Trung Đông, trở lại Đông Nam Á về quân sự. Bài viết cũng đề cập đến những tác động và giới hạn chiến lược của Mỹ. Giá trị tham khảo của bài viết là rất lớn, tuy nhiên do số lượng trang của bài nghiên cứu còn hạn chế - chỉ 13 trang nên cần bổ sung những nội dung chi tiết, cụ thể làm sáng tỏ những nhận định trên.
    Năm 2005, Hồ Châu có bài viết “Chiến lược Á - Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh - nhìn từ góc độ địa-chính trị” đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu. Như tên của bài viết, nội dung chính được đề cập ở đây là sự phân tích chính sách của Mỹ đối với lục địa Âu - Á sau hơn 10 năm Chiến tranh lạnh kết thúc dưới góc nhìn địa-chính trị. Bài viết nêu rõ: “Điều quan trọng nhất để tìm kiếm vai trò bá
     
Đang tải...