Tiểu Luận Ý thức pháp luật và pháp chế Xã hội chủ nghĩa

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. Ý THỨC PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
    1.1. Khái niệm và các chức năng của ý thức pháp luật
    1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật

    Ý thức pháp luật là một trong những hình thái của ý thức xã hội.
    Dưới dạng chung nhất, ý thức pháp luật được hiểu là tổng thể những tri thức, quan niệm, quan điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện sự nhận thức, tình cảm, thái độ, đánh giá của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của cá nhân, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức khác trong xã hội.
    Đặc điểm của ý thức pháp luật:
    Thứ nhất, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng nó có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật được thể hiện ở một số khía cạnh:
    a) Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Tồn tại xã hội cũ đã mất đi, nhưng ý thức xã hội nói chung trong đó có ý thức pháp luật do nó sinh ra nói riêng vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài. Ví dụ, những biểu hiện của tư tưởng, tâm lý pháp luật phong kiến như "một người làm quan cả họ được nhờ", "phép vua thua lệ làng", hay sự thờ ơ, phủ nhận đối với pháp luật hiện vẫn còn tồn tại trong xã hội ta, - xã hội XHCN.
    b) Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học, có thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội. Nếu là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi để thể hiện thành pháp luật và tạo ra những biến đổi tiến bộ trong đời sống xã hội.
    c) Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó, song nó cũng kế thừa những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật của thời đại trước đó. Những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến bộ.
    d) Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, với ý thức chính trị, đạo đức và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý như nhà nước và pháp luật. Tuỳ thuộc vào ý thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các hiện tượng trên. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác giáo dục pháp luật là phải biết phát huy mặt tích cực trong những biểu hiện của tính độc lập tương đối của ý thức pháp luật và hạn chế tới mức thấp nhất mặt tiêu cực của những biểu hiện đó.
    Thứ hai, ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp. Thế giới quan pháp lý của một giai cấp nhất định được quy định bởi vị trí của giai cấp đó trong xã hội. Mỗi quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật, nhưng tồn tại một số hệ thống ý thức pháp luật: có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của các giai cấp bị trị, của các tầng lớp trung gian . Về nguyên tắc, chỉ ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phản ánh vào trong pháp luật. Ý thức pháp luật của các giai cấp bị trị mâu thuẫn với ý thức pháp luật của giai cấp thống trị trong xã hội.
    Trong xã hội XHCN không có giai cấp đối kháng, pháp luật thể hiện ý chí của toàn thể nhân dân lao động và của cả dân tộc nên ý thức pháp luật có tính thống nhất cao. Do ý thức pháp luật XHCN ra đời sau nên ý thức pháp luật XHCN thừa hưởng được những tinh hoa của ý thức pháp luật của các xã hội trước, trong đó có xã hội tư sản với tư cách là những thành tựu trí tuệ mà các dân tộc đã tạo ra. Như các tư tưởng tiến bộ về xây dựng nhà nước pháp quyền, về nguyên tắc suy đoán vô tội, về chủ nghĩa lập hiến, về thiết lập và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân v.v.
    Xuất phát từ ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chi phối của tồn tại xã hội, nên muốn nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, trước hết phải chăm lo đến đời sống của nhân dân, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao. Xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện" mà Điều 3 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) của nước ta đã xác định chính là tạo ra nền tảng kinh tế - xã hội để xây dựng một xã hội có ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý cao.
    Mặt khác, do ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối, có thể làm tiền đề cho kinh tế - xã hội phát triển. Vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước, có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
    1.1.2. Chức năng của ý thức pháp luật
    Ý thức pháp luật có ba chức năng: chức năng nhận thức, chức năng mô hình hoá pháp lý, chức năng điều chỉnh.
    a. Chức năng nhận thức: Để hình thành các quan điểm, quan niệm, lòng tin về các quy phạm pháp luật hiện hành, còng nh­ c¸c quy ph¹m ph¸p luËt míi cần thiết phải ban hành, phải phân tích hiện thực khách quan và nhận thức được hiện thực khách quan đó. Như vậy, ý thức pháp luật thực hiện chức năng nhận thức, tức nhận thức các quá trình kinh tế - xã hội, các giá trị đạo đức đã được thể chế hoá hoặc cần phải được thể chế hoá thành pháp luật.
    b. Chức năng mô hình hoá pháp lý: Kết quả của quá trình nhận thức đó là sự hình thành nên các mô hình hành vi nhất định (các qui tắc xử sự) mà ý thức pháp luật đánh giá là các mô hình cần thiết và tất yếu để thiết lập các quan hệ xã hội theo một trật tự và hướng những quan hệ xã hội này phát triển phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội. Đó là chức năng mô hình hoá pháp lý của ý thức pháp luật.
    c. Chức năng điều chỉnh: Cuối cùng, ý thức pháp luật định hướng cho hành vi của con người hoặc là phù hợp với các yêu cầu đòi hỏi của pháp luật hiện hành (hành vi hợp pháp), hoặc làm cho hành vi của con người trở nên sai lệch với các yêu cầu đó (hành vi vi phạm pháp luật). Đó chính là chức năng điều chỉnh của ý thức pháp luật.
    1.2 Cơ cấu và phân loại ý thức pháp luật
    Ý thức pháp luật là một hiện tượng chính trị - pháp lý có cơ cấu phức tạp. Dựa trên những cơ sở khác nhau có thể chia ý thức pháp luật ra những bộ phận cấu thành khác nhau.
    a. Căn cứ vào tính chất nội dung của ý thức pháp luật có thể chia thành 2 bộ phận: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
    - Hệ tư tưởng pháp luật: là tổng thể những tri thức, tư tưởng, quan điểm và học thuyết về pháp luật . Như: vai trò, giá trị xã hội, các chức năng của pháp luật; kỹ thuật xây dựng pháp luật; quan điểm về các loại nguồn của pháp luật; các quyền và nghĩa vụ pháp lý; hoạt động đào tạo, giáo dục pháp luật.
    Tư tưởng pháp luật của nhân loại đã có bề dày lịch sử và thường xuyên có sự kế thừa, bổ sung, hoàn thiện phù hợp với sự tiến bộ xã hội.
    - Tâm lý pháp luật: là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý khác. Thí dụ, tình cảm đối với vấn đề bình đẳng, nỗi sợ hãi trước hình phạt v.v
    So với tư tưởng pháp luật, tâm lý pháp luật là bộ phận bền vững hơn, bảo thủ hơn. Tâm lý pháp luật gắn bó chặt chẽ với những truyền thống, tập quán, thói quen của con người. Nó được hình thành chậm và ít biến đổi.
    Giữa tâm lý pháp luật và tư tưởng pháp luật tồn tại mối quan hệ biện chứng. Mức độ xúc cảm, tình cảm pháp luật của cá nhân phụ thuộc vào đặc điểm và trình độ tư tưởng pháp luật của cá nhân đó. Ngược lại, sự phát triển của tư tưởng pháp luật cũng chịu ảnh hưởng của tâm lý pháp luật. Tâm lý pháp luật của cá nhân là tiền đề của những tư tưởng pháp luật mà cá nhân đó có thể đạt tới.
    b. Căn cứ vào mức độ và phạm vi nhận thức, có ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật mang tính lý luận.
    - Nội dung của ý thức pháp luật thông thường phản ánh mối liên hệ bên ngoài, có tính chất cục bộ của hiện tượng pháp luật, chưa đi vào bản chất bên trong của hiện tượng này.
    - Ý thức pháp luật mang tính lý luận tồn tại dưới dạng các học thuyết, quan điểm về pháp luật. Như: quan điểm về bản chất của pháp luật, sự tác động qua lại của pháp luật với các hiện tượng xã hội khác, vai trò của cơ chế điều chỉnh pháp luật trong xã hội, v.v
    c. Căn cứ vào chủ thể mang ý thức pháp luật có thể chia ý thức pháp luật thành các loại: ý thức pháp luật xã hội, ý thức pháp luật nhóm và ý thức pháp luật cá nhân.
    - Ý thức pháp luật xã hội là ý thức pháp luật của bộ phận tiên tiến đại diện cho xã hội. Ý thức pháp luật xã hội có cơ sở khoa học cao. Nó chứa đựng những khái niệm khoa học về bản chất, vai trò, các đặc trưng, chức năng, nguyên tắc . của pháp luật và được hình thành dưới tác động trực tiếp của khoa học pháp lý. Ý thức pháp luật của các nhóm xã hội và tất cả các thành viên trong xã hội chịu ảnh hưởng rất lớn của ý thức pháp luật xã hội.
    - Ý thức pháp luật nhóm phản ánh những đặc điểm của các nhóm xã hội tương ứng. Đó là những quan điểm, nhận thức tư tưởng, tình cảm . về pháp luật của một nhóm người nhất định trong xã hội. Ví dụ, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, ý thức pháp luật của cán bộ Tòa án, ý thức pháp luật của học sinh, sinh viên v.v.
    - Ý thức pháp luật cá nhân là những tri thức, những quan niệm, quan điểm, tâm trạng, tình cảm, thái độ của mỗi cá nhân đối với pháp luật. Không phải ý thức pháp luật của mọi cá nhân đều đạt tới ý thức pháp luật xã hội. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chính là nhằm nâng trình độ của ý thức pháp luật của các cá nhân lên ngang bằng với trình độ ý thức pháp luật xã hội.
    Ý thức pháp luật có vai trò quan trọng đối với cả hoạt động xây dựng pháp luật và hoạt động thực tiễn thực hiện pháp luật.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...