Chuyên Đề Xuất khẩu cá tra và cá basa của Việt Nam sang thị trường Mỹ và những vấn đề nan giải

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Xuất khẩu cá tra và cá basa của Việt Nam sang thị trường Mỹ
    Vào 14h07 ngày 8 tháng 8 năm 2002 theo giờ miền Đông Hoa Kỳ (hay 1h07 ngày
    9/8/2002 theo giờ Hà Nội), một cuộc họp của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ
    (ITC – US International Trade Commission) được kết thúc, với tuyên bố: "Dựa trên
    kết quả điều tra sơ khởi, ITC thấy ngành nuôi cá catfish của Mỹ có thể có nguy cơ bị
    đe dọa bởi một số mặt hàng cá da trơn philê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam". Kết
    luận này được đưa ra sau 40 ngày từ lúc Hiệp hội các nhà nuôi cá catfish Mỹ (CFA)
    đưa đơn kiện 53 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã bán
    phá giá các sản phẩm cá tra và basa philê đông lạnh vào thị trường Mỹ, gây thiệt hại
    nặng cho các nhà nuôi cá catfish trong nước.
    Vòng đầu của cuộc chiến thương mại về bán phá giá giữa các doanh nghiệp xuất khẩu
    thủy sản của Việt Nam và các nhà nuôi cá catfish Mỹ thế là đã kết thúc. Vụ kiện sẽ
    được chuyển sang Bộ Thương mại Hoa Kỳ để tiến hành điều tra, xem xét việc các
    doanh nghiệp Việt Nam có thực sự bán phá giá cá tra, basa tại thị trường Mỹ hay
    không. Cuối tháng 7 năm 2003 sẽ là thời điểm ra phán quyết nếu vụ kiện tiếp tục kéo
    dài cho đến chặng cuối cùng. Và nếu phán quyết nghiêng về phía nguyên đơn thì cá
    basa, cá tra đông lạnh của Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu thuế chống phá
    giá với thuế suất có thể lên tới 190% so với mức 0% hiện nay.
    Đây là vụ kiện bán phá giá đầu tiên giữa Mỹ và Việt Nam. Tranh chấp xảy ra đúng
    vào giai đoạn triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại Song phương Việt Mỹ
    (BTA) và thời gian Việt Nam chuẩn bị các điều kiện để gia nhập Tổ chức Thương mại
    Thế giới (WTO). Hơn thế nữa vụ kiện sẽ có tác động tới một hoạt động sản xuất đang
    đi lên với trên 200.000 lao động tại Vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
    Chính vì tính chất nhảy cảm này mà vụ kiện đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của các
    nhà quản lý, kinh doanh và phương tiện thông tin đại chúng.
    Các trại nuôi và doanh nghiệp chế biến catfish lập luận rằng mục tiêu của họ là đảm
    bảo thương mại công bằng. Ngược lại, phía Việt Nam nêu lên tư tưởng bảo hộ sản
    xuất bằng rào cản thương mại của các nhà sản xuất Mỹ, vốn không chỉ xuất hiện trong
    vụ kiện bán phá giá mà thực ra là bắt đầu tư những tranh chấp liên quan đến tên gọi
    catfish.
    Bên cạnh việc phân tích tính pháp lý, còn có một loạt các vấn đề quan trọng khác
    xung quanh vụ cá basa catfish. Ở mức độ nào thì các quy định về nhãn hiệu, chống trợ
    giá xuất khẩu, chống bán phá giá, môi trường, lao động, là những quy định hợp lý
    để đảm bảo thương mại bình đẳng và ở mức độ nào là các rào cản thương mại ẩn
    ngầm? Chủ nghĩa bảo hộ ở các nước phát triển đối với các sản phẩm mà Việt Nam có
    lợi thế mạnh như thế nào và nó có tác động gì tới chiến lược hội nhập kinh tế của Việt
    Nam? Đâu là những căn cứ để xác định Việt Nam hiện có kinh tế thị trường và điều
    này có tầm quan trọng thế nào trong các vụ tranh chấp thương mại về bán phá giá hay
    trợ giá? Vụ kiện sẽ khác đi thế nào nếu Việt Nam là thành viên của WTO?
    Để tìm lời giải đáp cho những câu hỏi trên, chúng ta hãy đi theo dòng sự kiện.
    Fulbright Economics Teaching Program Case Study Catfish Fight
    Nguyễn Xuân Thành 2
    Nuôi cá da trơn ở Đồng bằng sông Cửu Long
    Họ cá da trơn Pangasius tập trung ở một số nước Đông Nam Á, nơi hoạt động nuôi cá
    lồng, cá hầm trên sông, ao hồ hay đầm lầy theo quy mô nhỏ của nông dân ngày càng
    phát triển. Tại Việt Nam, cá da trơn được nuôi chủ yếu ở Đồng bằng sông Cửu Long
    (ĐBSCL), phổ biến là cá tra và cá basa. Trước năm 1995, cá giống phụ thuộc vào
    nguồn vớt tự nhiên. Người nuôi cá phải mua cá con do ngư dân vớt trong mùa cá bột
    chảy theo sông Mê Công từ Lào và Campuchia. Chi phí cá giống lúc đó cao, mà
    nguồn cung cấp lại bấp bênh và tỷ lệ hao hụt cao do thay đổi môi trường sống. Công
    nghệ tạo giống được đầu tư phát triển và tháng 5 năm 1995 là lúc mẻ cá sinh sản nhân
    tạo đầu tiên thành công.1 Từ đó, con giống với số lượng lớn và chi phí thấp được cung
    cấp thường xuyên cho nông dân. Theo ước tính của các cơ sở sản xuất giống, chi phí
    con giống giảm 2/3 so với trước. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về công nghệ nuôi
    với việc đưa thức ăn công nghiệp vào cũng đã giúp rút ngắn thời gian nuôi và giảm
    thiểu được lượng thức ăn cho 1 kg tăng trọng.
    Hoạt động nuôi cá tra, cá basa bắt đầu phát triển dưới hình thức bè cá và hầm cá, dọc
    hai bờ sông Hậu thuộc tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Nuôi cá bè, vốn được du nhập
    theo kinh nghiệm của ngư dân trên Hồ Tông-lê-sáp của Campuchia, nhanh chóng trở
    thành hình thức chủ yếu nuôi cá tra và basa. Huyện Châu Đốc của An Giang là nơi tập
    trung chủ yếu của các bè cá và cũng là nơi cung cấp cá giống chính yếu cho cả vùng.
    Điều kiện tự nhiên ở các địa phương này là yếu tố then chốt đảm bảo tính hiệu quả
    của hoạt động nuôi cá bè. Lưu lượng nước sông lớn giúp nông dân có thể nuôi được
    cá với mật độ dày, cho năng suất cao. Trên 1m3 nước có thể đạt năng suất 120-150 kg
    cá thương phẩm. Như vậy, trung bình một bè cá nhỏ cho sản lượng 30 tấn/vụ và bè cá
    lớn cho sản lượng 50-60 tấn/vụ.2 Khí hậu ấm áp quanh năm ở ĐBSCL cho phép có
    thể thả giống cá nuôi vào bất kỳ thời gian nào trong năm. Thời gian nuôi mỗi vụ cá có
    thể kéo dài từ 6 đến 12 tháng. Sau vụ nuôi 8-10 tháng, cá tra có thể đạt cỡ 1-1,3kg còn
    cá basa có thể đạt cỡ 1,3-1,5kg/con.
    Chi phí sản xuất thấp là yếu tố quan trọng tạo ra sự gia tăng sản lượng cá nhanh chóng
    khi các cơ hội về thị trường được mở ra. Trong thời gian 5 năm trở lại đây, sản lượng
    cá tăng lên liên tục. Trong năm 2001, sản lượng cá tra và cá basa của các tỉnh ĐBSCL
    lên tới 120.000 tấn, tăng gấp 6 lần so với năm 1997. Từ hai tỉnh đầu nguồn là An
    Giang, Đồng Tháp, nghề nuôi cá tra và basa đã lan nhanh đến Cần Thơ, Bến Tre,
    Vĩnh Long và Tiền Giang.
    Chi phí đầu tư và sản xuất cá3
    Đóng bè là chi phí đầu tư lớn nhất của nông dân nuôi cá tra và basa. Một bè cá nhỏ
    tốn khoảng 100 triệu đồng, còn một bè cá lớn tốn khoảng 200 triệu đồng. Khảo sát
    của Tổ chức ActionAid Vietnam cho thấy nông dân đầu tư bè cá chủ yếu bằng vốn
    tích lũy và vay mượn họ hàng, bạn bè. Chỉ sau khi đóng bè và đăng ký với chính
    quyền địa phương, thì họ mới có thể dùng bè làm thế chấp để vay ngân hàng. Các chi
    phí đầu tư cố định khác chủ yếu là mua sắm máy móc như máy cho ăn (3-4 triệu
    đồng) và máy nấu, trộn cám (5-6 triệu đồng).
    Các chi phí thường xuyên bao gồm giống, thức ăn, lao động, nhiên liệu, phòng-chữa
    bệnh, lãi vay và thuế. Chi phí cá basa giống là 3.500 đồng/con và cá tra giống là 500-
    1.500 đồng/con. Cá giống mua vào có trọng lượng trung bình khoảng 70-80 gam và
    được nuôi cho đến khi đạt trọng lượng 1-1,2 kg. Tỷ lệ hao hụt cá mỗi vụ do bị bệnh
    và chết vào khoảng 10%.
    Fulbright Economics Teaching Program Case Study Catfish Fight
    Nguyễn Xuân Thành 3
    Thức ăn cho cá có hai loại: chế biến tại chỗ và chế biến công nghiệp. Những hộ nuôi
    cá quy mô nhỏ thường sử dụng thức ăn chế biến tại chỗ từ các loại cá biển (như cá
    linh, cá cơm, cá trích .) và các loại cám, rau củ. Giá bình quân của thức ăn tự chế biến
    là 2.000 đ/kg. Các hộ nuôi cá quy mô lớn thường sử dụng cả thức ăn công nghiệp lẫn
    thức ăn tự chế. Thức ăn công nghiệp, tuy có chi phí cao hơn, nhưng có hàm lượng
    protein cao, không bị tan trong nước, từ đó tiết kiệm được lượng thức ăn cho 1 kg
    tăng trọng và tránh được tình trạng ô nhiễm và khả năng lây lan dịch bệnh. Cargill,
    một công ty chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, hiện là nguồn chủ yếu cung cấp thức ăn
    công nghiệp cho cá tra, cá basa. Thức ăn cho cá của Cargill có giá từ 4.000 đến
    5.000đ/kg. Theo tính toán của nông dân nuôi cá, thì cần 3 kg thức ăn để có được 1kg
    cá tra thành phẩm và cần 4kg thức ăn để có được 1 kg cá basa thành phẩm.
    Song song với việc mở rộng quy mô, hoạt động nuôi cá tra và basa giờ đây không chỉ
    bó hẹp trong phạm vi lao động gia đình. Các chủ hộ nuôi cá thường thuê thêm 1-2 lao
    động cho mỗi bè cá. Tiền công trả cho mỗi lao động là 500.000 đ/tháng. Tuy nhiên,
    chi phí thực tế là 750.000 đ/lao động/tháng do người làm công thường được bao tiền
    ăn với mức bình quân 250.000 đ/tháng.
    Các chi phí sản xuất khác bao gồm nhiên liệu để chạy máy nghiền thức ăn, phòng và
    chữa bệnh cho cá và các khoản thuế, phí. Ước tính, 1 tấn cá thành phẩm mỗi vụ cần
    20 lít nhiên liệu xăng/dầu với chi phí là 3.800 đ/lít. Chi phí phòng và chữa trị bệnh
    cho cá mỗi vụ vào khoảng 10 triệu đồng bình quân một bè. Thuế môn bài và các loại
    phí ở vào khoảng 1 triệu đồng/bè.
    Một khoản chi phí đáng kể là tiền lãi trả cho nợ vay. Bên cạnh vốn đầu tư cố định ban
    đầu, các hộ nuôi cá còn phải có lượng vốn lưu động rất lớn để mua giống và thức ăn
    hàng ngày. Tính bình quân, một hộ nuôi cá có thể vay từ 100 triệu đến 150 triệu đồng
    cho mỗi bè cá. Nguồn vay cũng rất đa dạng. Các hộ có thể dùng bè cá làm tài sản thế
    chấp để vay từ Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông Thôn hay Ngân hàng Công
    thương với lãi suất 0,75%/tháng. Các công ty chế biến thủy sản, khách hàng của các
    hộ nuôi cá, cũng cho vay với lãi suất 0,85-0,9%/tháng với điều kiện các hộ phải ký
    hợp đồng bao tiêu sản phẩm với công ty. Các khoản vay có thời hạn từ 6-12 tháng,
    phù hợp với thời vụ nuôi cá. Nông dân nuôi các cũng vay từ nguồn tư nhân không
    chính thức với lãi suất khá cao, lên đến 2-3%/tháng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...