Thạc Sĩ Xử lý rơm rạ bằng sợi tơ nấm rơm volvariella volvacea và đánh giá khả năng tạo bioethanol

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 22/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    Đặt vấn đề
    Vào những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, đi đôi với sự phát triển kinh
    tế xã hội, nhu cầu sử dụng năng lượng càng tăng nhanh. Theo dự báo của tổ chức
    Năng lượng thế giới IEO (International Energy Organzation), từ năm 1999 đến
    2020 nhu cầu tiêu thụ năng lượng của thế giới sẽ tăng 60%. Nguồn năng lượng có
    thể chia làm ba dạng: Năng lượng hóa thạch (dầu mỏ, than đá và khí tự nhiên), năng
    lượng tái tạo và năng lượng hạt nhân. Hiện nay trên thế giới nguồn cung cấp năng
    lượng chủ yếu vẫn là từ nhiên liệu hóa thạch. Hơn nữa, nguồn dầu thô và than đá
    được sử dụng quá nhiều, tạo ra sự giải phóng Carbon ngược lại vào bầu khí quyển,
    là nguyên nhân chủ yếu của sự thay đổi khí hậu toàn cầu. Do đó, nhiều quốc gia và
    tập đoàn năng lượng trên thế giới có chiến lược sử dụng tiết kiệm dầu mỏ đồng thời
    nghiên cứu sản xuất các nhiên liệu sạch thân thiện với môi trường trong đó có nhiên
    liệu sinh học.
    Nhiên liệu sinh học (NLSH) là loại chất đốt tái tạo sản xuất từ nguyên liệu
    động thực vật gọi là sinh khối (biomass). Nguồn năng lượng được tạo ra từ biomass
    chiếm 63% tổng số năng lượng tái tạo. Có nhiều cách phân loại nhiên liệu sinh học
    (NLSH). Thông thường dựa vào nguồn gốc của các nguyên liệu dùng để sản xuất
    NLSH có thể chia NLSH thành ba thế hệ:
    - NLSH thế hệ thứ nhất từ các loại cây trồng ăn được như lương thực, thực phẩm, ví
    dụ: Mía, của cải, ngũ cốc, dầu mỡ động thực vật. Nhược điểm cơ bản là đã sử dụng
    những nguồn tài nguyên sinh khối liên quan đến lương thực dẫn đến mất an ninh
    lương thực trên thế giới.
    - NLSH thế hệ thứ hai chủ yếu từ các phụ phẩm hoặc phế thải trong sản xuất, sinh
    hoạt có nguồn gốc hữu cơ, ví dụ: Phế thải nông lâm nghiệp (rơm rạ, trấu, bã mía,
    thân ngô, mùn cưa, gỗ vụn ), chăn nuôi (phân súc vật, bùn cống rãnh ) và sinh
    hoạt (dầu, mỡ thải). Ưu điểm nổi bật là sử dụng nguồn sinh khối không ảnh hưởng
    gì đến lương thực, thực phẩm nuôi sống con người và gia súc đảm bảo an ninh
    lương thực toàn cầu, đồng thời còn góp phần giảm thiểu ô nhiễm.
    ĐH Quốc gia ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM
    Trang 2
    - NLSH thế hệ thứ ba từ tảo (nước ngọt và nước biển), cây jatropha curcas (cây cộc
    rào hay cây dầu mè), cỏ swichgrass, cây halophyte, có ưu điểm vượt trội là dựa vào
    nguồn sinh khối phong phú của các loại cây không thuộc cây lương thực, có thể
    sinh trưởng hoang dại ở cả những nơi đất cằn cỗi với hàm lượng dầu cao. Tuy nhiên
    đó mới chỉ là nghiên cứu thăm dò ban dầu còn nhiều vấn đề khoa học và công nghệ
    liên quan đến canh tác, khai thác, chế biến các tài nguyên sinh khối này cần phải
    giải quyết trước khi NLSH thế hệ ba xuất hiện trên thị trường.
    Hiện nay NLSH thế hệ thứ hai được ưu tiên nghiên cứu và sử dụng vì hầu
    như sẽ không ảnh hưởng đến giá lương thực và đảm bảo an ninh lương thực toàn
    cầu. Biomass như rơm rạ, thân cây ngũ cốc và các phế thải nông nghiệp khác được
    tạo ra hàng năm trên thế giới khoảng hơn nửa tỷ tấn, trong đó châu Á chiếm tới
    92%. Rơm rạ là một trong những phế thải nông nghiệp ít giá trị sử dụng, số lượng
    lớn đặc biệt ở các nước xuất khẩu lúa gạo, như ở Việt Nam. Rơm rạ chiếm hơn 50%
    tổng trọng lượng cây lúa.
    Thành phần chủ yếu của chúng bao gồm cellulose, hemicellulose và lignin
    gắn kết chặt chẽ với nhau bởi những liên kết hidro và liên kết đồng hóa trị. Để có
    thể sản xuất ethanol, các polymer này cần được phân hủy thành đường đơn và sau
    đó hỗn hợp đường được lên men thành ethanol. Việc thủy phân lignocellulose theo
    con đường hóa học và enzyme đều không đơn giản và hao phí về mặt kinh tế. Các
    nghiên cứu cho thấy một số loài vi sinh vật có khả năng phân hủy lignocellulose
    trong đó có loài Volvariella volvacea, tên thường gọi là nấm rơm. Nấm rơm được
    trồng trên nhiều dạng chất thải có lignocellulose như rơm của các cây ngũ cốc, lá
    chuối, bã mía đường, vỏ quả cọ dầu. (Cai et al., 1999). Giống với nhiều vi nấm,
    trong quá trình sinh dưỡng, các loại nấm này có khả năng sản sinh trong môi trường
    nuôi dưỡng chúng hệ enzym để phân giải cellulose, hemicellulose thành các đường
    đơn sau đó mới hấp thụ làm nguồn dinh dưỡng. V. volvacea sản xuất ra một hệ
    thống nhiều enzym gồm β-glucosidase, endo-1,4-β-glucanase, cellobiohydrolase
    ĐH Quốc gia ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM
    Trang 3
    chuyển hoá cellulose thành glucose (Cai et al., 1998). Ngoài ra, V. volvacea còn tạo
    ra laccase là một enzym phân giải lignin và oxy hoá các hợp chất phenol [1].
    Việc sử dụng V. volvacea để thủy phân lignocellulose góp phần giảm ô nhiễm
    môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế. Do đó, chúng tôi chọn đề tài “Tiền xử lý,
    thủy phân và thử khả năng tạo bioethanol từ rơm rạ” với mục tiêu và nội dung cụ
    thể như sau:
    Mục tiêu nghiên cứu
    Mục tiêu nghiên cứu: Sử dụng các chủng nấm rơm để tiền xử lý, thủy phân và
    thử khả năng tạo bioethanol từ rơm rạ từ đó chọn chủng nấm rơm có khả năng thủy
    phân nguyên liệu lignocellulose tốt nhất.
    Nội dung nghiên cứu:
    Nuôi cấy nấm rơm trên cơ chất rơm rạ với độ ẩm, hàm lượng dinh dưỡng thích
    hợp.
    Theo dõi hoạt tính các enzyme thủy phân cơ chất rơm rạ và sự thay đổi thành
    phần rơm rạ theo thời gian.
    Điện di protein để kiểm tra sự hiện diện của protein enzyme.
    Lên men bằng nấm men Saccharomyces cerevisiae.
    Thử khả năng tạo cồn bằng phương pháp sắc ký khí khối phổ GC/MS-headspace
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...