Báo Cáo XHH082 - Nguyên nhân của hiện tượng ly hôn ở phường Đồng Xuân - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội

Thảo luận trong 'Xã Hội Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU


    1. Tính cấp thiết của đề tài


    “Tưởng rằng cây cả bóng cao

    Em ghé thân vào cho đỡ nắng mưa

    Ngờ đâu cây cả bóng thưa

    Khi nắng cũng nhục, khi mưa cũng sầu”​Cũng như nhiều Quốc gia trên thế giới, vấn đề ly hôn ở nước ta hiện nay chẳng những thu hút giới nghiên cứu mà còn là mối quan tâm thật sự của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và sự chú ý đặc biệt của dư luận Xã hội.

    Nó đã và đang được quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ: luật học, tâm lý học, đạo đức học và văn hóa học Có nhiều câu hỏi liên quan đến hiện tượng ly hôn được nêu ra: phải chăng ly hôn là biểu hiện của khủng hoảng gia đình? Ly hôn là biểu hiện của sự giải phóng phụ nữ, của tiến bộ xã hội, của sự thay đổi áp lực trong gia đình? Hay phải chăng ly hôn là biểu hiện của sự sai lệch nhận thức, sự xung đột vai trò, vị thế của cuộc sống gia đình? .

    Những câu hỏi trên cần được trả lời không chỉ từ góc độ nghiên cứu của luật học, tâm lý học, đạo đực học mà cả giải thích của Xã hội học.

    Bởi gia đình chính là nền tảng của Xã hội, nó có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cuộc sống cho từng các nhân, nhu cầu hạnh phúc của các thành viên trong gia đình. Nhưng đó cũng là sự lo âu của Xã hội về những rạn nứt và băng hoại các giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam về phương diện đạo đức, tình cảm, lối sống, văn hóa trước những tác động phức tạp của kinh tế thị trường, trước những cám dỗ của cuộc sống dẫn đến hiện tượng ly hôn, gia đình tan vỡ.

    Nhìn ra thế giới, gia đình các nước phương Tây trong những thập kỷ gần đây đang ở trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng với tỷ lệ ly hôn ngày một cao, sự gia tăng đáng kể của các cặp vợ chồng sống với nhau không đăng ký (sống thử) vơi những đứa con ngoài giá thú, quan hệ tình dục trước hôn nhân.

    Rồi đến số trẻ em lang thang kiếm sống ngày một lớn. Chúng vì lý do bố mẹ bỏ nhau và rơi vào các tệ nạn Xã hội. Nguyên phó thứ trưởng Nguyễn Khánh, trưởng ban chỉ đạo phòng chống các tệ nạn Xã hội cho rằng: “chỉ khi nào xây dựng được gia đình Việt Nam lành mạnh, phát triển bền vững mới thực sự ngăn chặn được, khắc phục được các tệ nạn Xã hội đang là nguy cơ lớn nhất của đất nước ta”.([1])

    Việt Nam đang trên chặng đường CNH - HĐH, tiến lên CNXH trước những biến đổi to lớn, bên cạnh đó gia đình Việt Nam cũng có những chuyển mình nhanh chóng theo cả xu hướng tích cực và tiêu cực. Biểu hiện cho sự biến đổi đó là tỷ lệ ly hôn tăng với xu hướng phức tạp, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Vì lý giải hiện tượng ly hôn ở đô thị theo cả cấp độ vi mô và vĩ mô, giảm bớt hậu quả tiêu cực của ly hôn cho các nhân và Xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững gia đình là việc làm cần thiết. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Nguyên nhân của hiện tượng ly hôn ở phường Đồng Xuân - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội”.


    2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu

    Hê- ghen viết : “ tự nó, theo khái niệm của nó, hôn nhân là không bị phá vỡ, nhưng chỉ tự nó, tức là chỉ theo khái niệm của nó mà thôi .”

    (Hê - ghen “nguyên lý của triết học pháp quyền “ đoạn bổ sung (163-219)

    Điều thường xảy ra luôn dưới chế độ TB không phải là những trường hợp riêng lẻ, mà là hiện tượng điển hình, đó là những điều kiện làm cho các giai cấp bị áp bức không thể nào “thực hiện được” các quyền dân chủ của họ. Phần lớn là trường hợp quyền ly hôn không thể thực hiện được dưới chế độ TB, vì dưới chế độ đó, giới bị áp bức thì bị đè nén về mặt kinh tế vì người phụ nữ dưới chế độ đó, bất kể dưới hình thức dân chủ nào vẫn chỉ coi là “ người nô tỳ trong gia đình”, người nô tỳ bị giam cầm trong buồng ngủ, buồng con cái, trong nhà bếp.

    Quyền tự do ly hôn càng đầy dủ thì người phụ nữ càng thấy rõ ràng nguyên nhân khiến họ phải làm “nô lệ gia đình” (V-Lênin, về “1 sự biếm hoạ CN Mác và về CNKT đế quốc”.([2])


    Trên thế giới cũng vậy, ly hôn là đề tài được quan tâm nghiên cứu từ rất lâu, đặc biệt trong các công trình nghiên cứu của cac nhà XHH phương tây, trong dó đáng chú ý là công trình tiêu biểu như: “the dirorce revolution the unexpected social economic consequences for women and children in america” (các mạng ly hôn và hậu quả KTXH không mong đợi đối với phụ nữ và trẻ em ở Mỹ) của Lenore J.Weitzman -1985. “mothers and divorce” (Những người mẹ và ly hôn) của Terry A.Xendell -1986 .

    Đặc biệt là cuốn “surnving the breakup - how children and parent upe with divorce” của 2 nhà khoa học nữ Judith Swallersteen và Joan Berlin Kelly (mỹ ) -1980 đã đưa ra 1 phân tích khá sắc sảo dưới góc độ tâm lý học, xã hội học, về ly hôn.Hai nhà nghiên cứu đã đề cập đến nguyên nhân tâm lý dẫn đến ly hôn qua nghiên cứu 60 trường hợp ly hôn ,những khó khăn, hạnh phúc sau ly hôn của từng trường hợp điển hình, khả năng tái hôn, thu nhập của vợ chồng sau ly hôn, nhất là thái độ, cuộc sống của những đứa con sau ly hôn. ở Việt Nam, bản thân khoa học XHH còn mới mẻ nên nghiên cứu XHH về ly hôn hầu như rất ít chủ yếu nghiên cứu mang tính chất lồng ghép, tổng hợp .

    Ở nước ta, vấn đề này cũng ngày 1 bức thiết hơn và được các nhà nước quan tâm tìm hiểu. Đã có công trình nghiên cứu được tiến hành như nghiên cứu “như gia đình phụ nữ thiếu vắng chồng” do viện nghiên cứu gia đình và giới được thực hiện -1989, nghiên cứu này đã phân tích thực trạng đời sống kinh tế và tình cảm của người phụ nữ ly hôn, ly thân ở nông thôn miền núi phía bắc. Điều lý thú là những bằng chứng thực nghiệm mới này đã chỉ ra khó khăn kinh tế như là nguyên nhân cơ bản dẫn đến ly hôn.

    Nghiên cứu tiếp theo là “nghiên cứu về quyền của phụ nữ trong luật hôn nhân và gia đình - 1986 và việc thực hiện quyền đó” do TW hội liên hiệp phụ nữ việt nam thực hiện - 1994. Nghiên cứu này thống kê tình hình ly hôn ở việt nam qua các số liệu của toà án Nhân dân tối cao; đồng thời phân tích các nguyên nhân ly hôn dựa trên 517 bộ hồ sơ ly hôn lưu trữ tại toà án thuộc 4 tỉnh thành phố (Hà Nội, Vĩnh Phú, Quảng nam - Đà nẵng và thành phố HCM) thời gian 2 năm 1993-1994. Dựa trên các hồ sơ này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến ly hôn do tính tình không hợp chiếm tỷ lệ cao nhất (20.51%) tiếp đến là do khác biệt về nghề nghiệp của vợ và chồng làm việc ở môi trường khác nhau và phải sống xa nhau và lý do ngoại tình chiếm tỷ lệ rất thấp.

    Ở mỗi quốc gia thì ly hôn cũng rất khác nhau như ở 1 số quốc gia theo đạo Hồi, phụ nữ không có quyền xin ly hôn trong khi đó chồng họ lại có quyền đuổi vợ ra khỏi nhà và chỉ cần nói ba lần câu đuổi vợ trước 1 nhân chứng và thế là “thủ tục bỏ vợ đã hoàn tất”.

    Tại một số quốc gia như Aixơlen, philippin, ly hôn hoàn toàn bị cấm biệt. ở một số nước khác, việc giải quyết ly hôn không quy vào lỗi. Trong khi đó, một số quốc gia khác, việc giải quyết ly hôn lại quy về lỗi những người có lỗi thường bị phạt nặng và phải đền bù cho phía không có lỗi .

    Một số nghiên cứu cũng do TWHLHPN tiến hành năm 1997 “Tổng kết về tình hình ly hôn ở Việt Nam” dựa trên nguồn số liệu từ Viện kiểm soát và Toà án Nhân dân tối cao báo cáo và phân tích tình trạng ly hôn qua 375 hồ sơ ly hôn lưu trữ tại 3 toà án địa phương là Hà Nội, Thanh Hoá và Vũng Tàu, kết quả có 57,1% cặp vợ chồng ly hôn vì lý do tính tình không phù hợp. Có 6,1% hồ sơ ghi người chồng không có trách nhiệm với gia đình, 3,2%do mâu thuẫn mẹ chồng nàng dâu 0,8%do vợ hắt hủi chồng, 12,8% do chồng ngoại tình và cũng tỷ lệ tương tự như vậy do chồng đánh vợ .

    Đáng chú ý là công trình nghiên cứu ly hôn - nghiên cứu trường hợp Hà nội do Viện gia đình và giới tiến hành 1998 - 1999 đã khắc phục được hạn chế của những nghiên cứu trước. Lần đầu tiên nghiên cứu này sử dụng các phương pháp thực nghiệm trong nghiên cứu như thu thập các tài liệu thống kê, lập bảng hỏi, chọn mẫu, và tiến hành thu thập thông tin từ các đối tượng có liên quan đến ly hôn. Chính vì vậy, những nguyên nhân ly hôn thực tế đã được làm sáng rõ hơn. Có thể nói, các nghiên cứu này đã góp phần nhận diện bức tranh về ly hôn ở Việt nam thời kỳ đổi mới. Nhưng con số đó là của cách đây 6 năm về trước và hiện nay thực tế còn khác hơn nhiều với những lý do cũng đa dạng hơn.

    3. Mục đích , đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    * Mục đích nghiên cứu:

    Từ góc độ tiếp cận XHH đề tài cố gắmg nhận điện nguyên nhân ly hôn ở đô thị thông qua nghiên cứu trường hợp 1 phường Hà Nội ,cung cấp những dữ liệu lý giải khoa học về hiện tượng ly hôn ,từ đó giúp cho các nhà quản lý đưa ra biện pháp nhằm củng cố và xây dựng thiết chế gia đình.

    * Đối tượng nghiên cứu:

    Những vấn đề xung quanh việc ly hôn của 1 số gia đình tại phường Đồng Xuân như nguyên nhân thực tế và hậu quả của ly hôn ,dư luận xã hội về ly hôn và các giải pháp nhằm hạn chế nó.

    * Phạm vi nghiên cứu

    Nghiên cứu được tiến hành tại phường Đồng Xuân quận Hoàn Kiếm. Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ tháng 2 và kết thúc vào tháng 5/ 2006.

    Toàn Quận Hoàn Kiếm có 18 phường. Phường Đồng Xuân giáp ranh với các phường Hàng Mã, Hàng Buồm, Hàng Đào, Phúc Tân. Phường nằm ở vị trí thuộc phía Bắc nội thành Hà Nội với tổng diện tích là 0,17 Km2, số dân sinh sống trên địa bàn phường là 11.025 người, trong đó có 2.573 hộ gia đình chia thành 11 cụm dân cư, 41 tổ dân phố.

    Về kinh tế:

    Phường có chợ Đồng Xuân - Bắc Qua được hình thành từ năm 1889 nằm trong khu vực phố cổ của quận Hoàn Kiếm, là chợ đầu mối trung tâm thương mại lớn nhất khu vực phía Bắc. Tổng diện tích chợ là 27.000 m2 với hơn 2.300 hộ kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau. Hàng ngày có hàng vạn lượt khách tới mua hàng và thăm quan trong đó có không ít du khác nước ngoài. Trong những năm qua, hoạt động của chợ ngày càng phát triển, lượng hàng hóa luận chuyển qua chợ ngày càng nhiều, lượng người vào chợ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, chợ Đêm Đồng Xuân, chợ Rau quả đêm đang được phát triển và duy trì hoạt động. Chính vì vậy đây là một địa bàn nhạy cảm về vấn đề an ninh chính trị, phức tạp về trật tự an toàn xã hội, trật tự đô thị, vệ sinh môi trường.

    Trong địa bàn phường có 36 xí nghiệp quốc doanh, 3 công ty trách nhiệm hữu hạn, 8 hợp tác xã và tổ sản xuất. Đời sống dân cư đạt mức khá của thành phố với không ít hộ giàu.

    Về văn hóa - xã hội:

    Do phường chủ yếu là buôn bán nên không có nhiều cơ sở giáo dục và đào tạo như các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp. Chỉ có một trường THCS Lê Lợi đóng trên địa bàn phường. Do đặc thù trên địa bàn phường có nhiều trung tâm buôn bán, chợ và giáp ranh với các phường ngoài bãi sông Hồng là nơi dễ nảy sinh các tệ nạn xã hội gây mất an ninh trật tự. Nhưng do cố gắng của chính quyền và nhân dân địa phương nên tình hình an ninh trên địa bàn phường vẫn được đảm bảo tốt.

    Về vấn đề ly hôn:

    Tổng số các vụ án đã thụ lý và gửi lên Tòa án quận trên địa bàn là 50 vụ, đã giải quyết 48 vụ. So với năm 2004 thì lượng án giải quyết ngày một tăng lên.

    4. Phương pháp nghiên cứu

    * Phương pháp luận

    Chủ nghĩa duy vật biên chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận cho đề tài nghiên cứu này. Đề tài cũng triển khai trên cơ sở vận dụng nguyên tắc phương phàp luận của các lý thuyết XHH: lý thuyết xung đột và lý thuyết trao đổi xã hội và lý thuyết sai lệch xã hội.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...