Thạc Sĩ Xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại NHCP Công thương Việt Nam chi nhánh Ba Đình bằ

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 17/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦUSau hơn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước làm thay đổi cơ bản nền kinh tế với những chỉ số ngày càng khả quan. Trong đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có sự đóng góp không nhỏ vào sự phát triển nền kinh tế nước nhà. Đặc biệt, thông qua đổi mới hoạt động tín dụng thì hệ thống ngân hàng Việt Nam đã biến quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng, Chính phủ và NHNN trở thành hiện thực. Những quan điểm đổi mới này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, các văn bản pháp quy, trong đó có đổi mới tín dụng ngân hàng. Những ý tưởng quan trọng này được khởi nguồn từ quyết định 32/1977/CP của Hội đồng chính phủ về chủ trương cải tiến và mở rộng tín dụng ngân hàng; các văn bản của Nhà nước và của ngành ngân hàng ban hành sau năm 1986. Nhờ đó mà hệ thống ngân hàng đã huy động và cung cấp một lượng vốn khá lớn cho nền kinh tế, ước tính hàng năm chiếm khoảng 16- 18% GDP và gần 50% vốn đầu tư toàn xã hội. Đặc biệt, sự tăng trưởng tín dụng liên tục trong các năm gần đây.
    Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng cổ phần Công thương Việt Nam, em nhận thấy việc xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với các ngân hàng cũng như bản thân doanh nghiệp được xếp hạng. Bởi vì thông qua việc xếp hạng các Ngân hàng có thể đưa ra các quyết định liên quan đến việc cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp như mức rủi ro khi cho vay,mức lãi suất, khoản vay , thời hạn vay Chính vì vậy, em đã chọn đề tài:
    Xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại NHCP Công thương Việt Nam chi nhánh Ba Đình bằng mô hình Logistic”.
    Đề tài của em gồm ba phần:
    Chương I. Tổng quan về NHTM và xếp hạng tín dụng trong ngân hàng
    Chương II. Thực trạng xếp hạng tín dụng khách hàng doanh nghiệp tại Vietinbank chi nhánh Ba Đình
    Chương III. Ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng khách hàng doanh nghiệp của Vietinbank
    Mục đích nghiên cứu
    - Hệ thống hóa các lý thuyết, lý luận liên quan đến NHTM và hoạt động xếp hạng tín dụng của Ngân hàng.
    - Tìm hiểu mô hình đánh giá rủi ro tín dụng nhằm mang lại cho cán bộ tín dụng và ngân hàng những kiến thức hữu ích trong việc hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Từ việc nghiên cứu này sẽ giúp ngân hàng và cán bộ tín dụng nhận thấy tính khách quan trong việc quyết định cấp tín dụng, hạn chế yếu tố chủ quan trong việc xét duyệt cho vay.
    Phương pháp nghiên cứu
    - Sử dụng phương pháp thu thập số liệu và xử lý số liệu
    - Sử dụng các mô hình kinh tế lượng và phần mềm Eviews
    - Kết hợp các phương pháp so sánh, đối chứng để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu
    Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu : 178 doanh nghiệp đã và đang có quan hệ tín dụng với Vietinbank chi nhánh Ba Đình.
    - Phạm vi nghiên cứu : Các chỉ tiêu tài chính và chỉ tiêu phi tài chính của 178 doanh nghiệp vay vốn Vietinbank và ứng dụng mô hình Logistic trong xếp hạng doanh nghiệp bằng chương trình Eviews. Từ đó đưa ra mối liên hệ và dự báo cho các khách hàng khác.
    Em xin chân thành cám ơn Ban giám đốc Ngân hàng cùng các anh chị Phòng KHDNL của Vietinbank chi nhánh Ba Đình - Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, để em có thể tìm hiểu sâu về nghiệp vụ Ngân hàng.
    Em cũng xin chân thành cám ơn thầy giáo PGS.TS NGÔ VĂN THỨ - Trưởng khoa Toán kinh tế đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Em cũng xin cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Toán Kinh Tế đã dạy dỗ chỉ bảo em trong quá trình học tập tại trường.









    CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ NHTM VÀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG TRONG NGÂN HÀNGI. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NHTM
    1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHTM
    1.1. Lịch sử hình thành ngân hàng
    Sự hình thành của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng. Còn sự phát triển của ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
    Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc lãnh thổ kết hợp với việc trao đổi thương mại, giao lưu quốc tế đã làm phát sinh nghiệp vụ đầu tiên của ngân hàng là nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Tiếp theo do nhu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, nhà buôn nên nghiệp vụ cất trữ hộ phát triển làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng quy mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện việc thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Lúc này, nghiệp vụ cho vay phát sinh. Đầu tiên, họ dùng vốn tự có để cho vay. Sau đó, họ nhận thấy tính chất vô danh của số dư thường xuyên ở trong két từ hoạt động nhận tiền gửi có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay và phát triển thành hoạt động chuyên nghiệp: cho vay dựa trên tiền gửi của khách, mở rộng cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền, cung các tiện ích khác. Từ đó, ngân hàng dần hình thành qua các chức năng, dịch vụ hoặc vai trò mà nó thực hiện trong nền kinh tế.
    1.2. Quá trình phát triển của ngân hàng
    Hình thức ngân hàng đầu tiên, ngân hàng của các thợ vàng thực hiện cho vay với các cá nhân nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng, hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi. Thấu chi là hình thức cho phép khách hàng chi nhiều hơn số tiền gửi tại ngân hàng. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nên nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng phát hành chứng chỉ tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
    Sự sụp đổ của các ngân hàng đã gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng xấu tới hoạt động buôn bán. Trước tình hình này, NHTM ra đời thực hiện các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng như huy động tiền gửi, thanh toán, cất giữ hộ và cho vay. Tuy nhiên khác với ngân hàng của các thợ vàng, NHTM chủ yếu cho các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu là hình thức các khoản vay cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa với lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận được tạo ra do sử dụng vốn tiền vay. Theo sau NHTM là một loạt các ngân hàng cũng lần lượt ra đời như ngân hàng tiền gửi, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng đâu tư, ngân hàng chính sách tạo nên hệ thống các ngân hàng.
    Sự đa dạng hóa các loại hình ngân hàng và các hoạt động ngân hàng góp phần thay đổi hoạt động cơ bản của ngân hàng. Quá trình phát triển của ngân hàng đang tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa chúng. Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia. Ở Mỹ, năm 1984 ngân hàng Illinois, năm 1991 ngân hàng BOA bị giảm sút lớn về tiền gửi dẫn đến mất khả năng thanh toán. Năm 1990, NHTM Nhật và các hãng chứng khoán gặp rủi ro lớn do sự sụp đổ của thị trường Bất động sản và thị trường Chứng khoán. Năm 1992, ngân hàng J.P.Morgan mất 200 triệu USD do nắm chứng khoán thế chấp khi lãi suất tăng đột ngột. Năm 1997, khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á bắt nguồn từ Thái Lan đã làm nhiều ngân hàng ở Châu Á bị mất hàng tỷ USD, bị phá sản hoặc buộc phải sát nhập. Nền kinh tế Thái Lan bị kéo lùi sự phát triển tớ 20 năm, nền kinh tế thế giới cũng bị ảnh hưởng nặng nề và giảm sút 5% thu nhập chung trên toàn thế giới. Cũng vào năm 1997, nhiều NHTM Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi cao như vụ Tamexco với lượng nợ khó đòi lên tới 550 tỷ VNĐ, vụ Tăng Minh Phụng với lượng vốn thất thoát hơn 4000 tỷ VNĐ. Năm 2001, tập đoàn năng lượng Enron phá sản đã tác động đến hầu hết các ngân hàng danh tiếng trên thế giới như J.P.Morgan Chase với 2,6 tỷ USĐ trong đó 900 triệu là không được bảo đảm; Citi Group có tổng dư nợ với Enron tới thời điểm phá sản là 1,2 tỷ USD trong đó 400 triệu là không được bảo đảm. Năm 2002, các ngân hàng Argentina đã đối mặt với tình trạng rủi ro thanh khoản nặng nề. Sự hạn chế rút tiền của chính phủ đã làm cho tình trạng thêm trầm trọng. Tới tháng 4/2002, các ngân hàng Argentina đã đồng loạt đóng cửa. Theo tiết lộ của HSBC thì cuộc khủng hoảng ở Argentina đã làm mất 1850 triệu USD trong năm tài chính 2001. Tháng 10/2003, chỉ vì một tin đồn thất thiệt mà ACB của Việt Nam đã khiến cho số lượng khách hàng đến rút tiền trước hạn tại ACB tăng vọt, tổng khách hàng rút một ngày lên tới 4000 lượt; cán bộ của ACB phải làm việc đến tận 20h30 mà vẫn không giải quyết được tất cả yêu cầu trong ngày; chỉ trong vòng ACB đã chi trả hơn 2000 tỷ VNĐ. Tuy nhiên, vụ việc được sự can thiệp kịp thời và đúng lúc của NHNN nên xử lý nhanh chóng trong vòng hai ngày. Tháng 7/2004, các ngân hàng Nga đang đứng trước tình trạng thanh khoản tồi tệ do dòng người rút tiền hàng loạt tại những ngân hàng lớn như Guta, Alfa và sau đó lan sang toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trong 3 ngày từ 21-23/7 riêng ngân hàng Alfa đã chi trả hơn 200 triệu USD. Khủng hoảng chỉ chấm dứt khi có sự can thiệp mạnh tay của NHTW. Năm 2007, khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp ở Mỹ và lan ra toàn cầu có nguyên nhân từ sự xẹp hơi của bong bóng thị trường nhà ở của Mỹ làm cho các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Kết quả làm cho 9 ngân hàng Mỹ bị phá sản, khách hàng mất niềm tin vào ngân hàng và làm ảnh hưởng đến nhiều nước khác. Đến năm 2008- 2009 cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp đã chuyển thành cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, làm cho hầu hết các quốc gia đều rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng. Năm 2008, 25 ngân hàng Mỹ phá sản; năm 2009 có 28 ngân hàng Mỹ phá sản; nhiều quốc gia Châu Âu, Nhật, Mỹ áp dụng lãi suất tái chiết khấu xấp xỉ 0%. Tóm lại. sự sụp đổ của các ngân hàng cũng là một khâu tất yếu trong tiến trình phát triển của ngân hàng.
    2. Khái niệm về NHTM
    NHTM đã hình thành, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển của hệ thống NHTM đã có tác động to lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa, ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao của nó, đó là kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Tuy nhiên, đối với mỗi quốc gia sẽ có những quan niệm khác nhau về NHTM. Ví dụ như: Ở Mỹ, NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính; ở Pháp, NHTM là những xí nghiệp thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức tiền gửi hay hình thức khác và họ dùng vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính; ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các khoản tiền gửi cho vay, tài trợ và đầu tư
    Ở Việt Nam, quan niệm về NHTM cũng thay đổi cùng với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế của đất nước. Theo Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng và Công ty Tài chính năm 1990 thì NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 1999 thì NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2003 thì NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 thì NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.
    3. Hoạt động cơ bản của NHTM
    NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác.
    3.1. Hoạt động tạo lập nguồn vốn
    Nguồn vốn bao gồm VCSH, nguồn tiền gửi, nguồn tiền đi vay, nguồn khác như ủy thác, thanh toán
    3.1.1. Vốn chủ sở hữu
    VCSH là số vốn do chủ sở hữu ngân hàng đóng góp ban đầu và được bổ sung trong quá trình kinh doanh. Cơ cấu VCSH gồm vốn góp như vốn của Nhà nước, các cổ đông đóng góp, các bên liên doanh góp, vốn thuộc sở hữu tư nhân; các quỹ như quỹ dự trữ bổ sung VĐL, quỹ bảo toàn vốn, quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ dự phòng rủi ro tín dụng ; các khoản vay dài hạn có điều kiện nhất định.
    Theo hiệp định Basel 1988, thành phần VCSH bao gồm vốn cơ bản (vốn cấp I) và vốn bổ sung (vốn cấp II).
    - Vốn cơ bản bao gồm VĐL, vốn cổ phần tăng thêm, lợi nhuận giữ lại, quỹ dự trữ công khai từ lợi nhuận sau thuế
    - Vốn bổ sung bao gồm quỹ dự trữ do đánh giá lại tài sản, quỹ dự phòng bù đắp những rủi ro được trích lập để bù đắp những rủi ro đột suất chưa xác định được, các khoản nợ được xem như vốn.
    3.1.2. Nguồn tiền gửi
    Tiền gửi là khoản mục nguồn vốn được tạo ra do hoạt động nhận gửi tiền của NHTM. Tùy theo các cách tiếp cận khác nhau mà tiền gửi cũng được phân loại thành nhiều khoản mục khác nhau.
    - Theo mục đích gửi tiền
    Tiền gửi thanh toán là loại hình tiền gửi được sử dụng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán qua Ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng L/C, thẻ ATM nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh nhất của khách hàng.
    Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, hưởng lãi theo quy định của các tổ chức nhận tiền gửi và được bảo hiểm theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
    - Theo thời hạn thì tiền gửi được chia thành tiền gửi không kỳ hạn, kỳ hạn ngắn, kỳ hạn trung , kỳ hạn dài.
    - Theo đối tượng gửi tiền thì tiền gửi được chia là tiền gửi cá nhân, doanh nghiệp, ngân hàng khác, tổ chức xã hội chính trị
    3.1.3. Nguồn tiền vay
    a. Vay NHNN
    NHTM huy động vốn bằng cách vay NHNN dưới hình thức tái chiết khấu, thấu chi và cho vay qua đêm. Các giấy tờ có giá đã được các NHTM chiết khấu có thể tái chiết khấu tại NHNN. NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định như những giấy tờ có giá có chất lượng và phù hợp với mục tiêu của ngân hang Nhà nước trong từng thời kỳ để có thể vay vốn từ NHNN nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả khi thiếu hụt dự trữ. NHNN là người cho vay cuối cùng của các NHTM.
    b. Vay các tổ chức tín dụng khác
    Các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng hoặc qua trung tâm điều hòa vốn của ngân hàng. Các NHTM vay các tổ chức tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả cấp bách, bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay từ NHNN.
    c. Vay trên thị trường vốn
    Các NHTM phát hành các giấy nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của ngân hàng hiện tại, chuẩn bị cho nhu cầu vốn của ngân hàng trong tương lai hoặc vay hộ cho khách hàng.
    3.1.4. Nguồn khác
    Nguồn này bao gồm nguồn ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, ủy thác giải ngân và thu hộ; các nguồn trong thanh toán như séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ để mở L/C; các nguồn khác.
    3.2. Hoạt động khai thác và sử dụng vốn
    Hoạt động cho vay và đầu tư là hoạt động sử sụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại của ngân hàng. Hoạt động khai thác và sử dụng vốn bao gồm các khoản mục kho quỹ, cho vay, đầu tư và các sử dụng vốn khác.
    3.2.1. Các khoản mục kho quỹ
    Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần bảo đảm an toàn để giữ vững lòng tin của khách hàng. Muốn có được sự tin cậy về phía khách hàng trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán đó là đáp ứng nhu cầu rút tiền từ phía khách hàng. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành lại một phần nguồn vốn không sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này được gọi là dự trữ. NHTW được phép ấn hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ nhất định, việc trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc do chính phủ quy định. Dự trữ bao gồm:
    - Dự trữ sơ cấp bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi tại các ngân hàng khác
    - Dự trữ thứ cấp là dự trữ không tồn tại bằng tiền mặt mà bằng chứng khoán, có nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể bán để chuyển thành tiền một cách thuận lơi. Các chứng khoán đó bao gồm tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận, các giấy tờ ngắn hạn khác
    3.2.2. Cấp tín dụng
    Nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các NHTM có thể dùng để cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân.
    a. Cho vay
    Cho vay là hoạt động tín dụng của NHTM. Trong đó, NHTM sẽ cho người đi vay, vay một số vốn để sản xuất kinh doanh, đầu tư hoặc tiêu dùng. Khi đến hạn, người đi vay phải hoàn trả vốn và lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm soát được quá trình sử dụng vốn. Người đi vay có ý thức trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng vốn làm sao cho có hiệu quả để hoàn trả nợ. Trong cho vay thì mức độ rủi ro quá lớn,khả năng không thu hồi vốn vay hoặc trả không hết hoặc không đúng hạn do chủ quan hoặc khách quan. Do đó, khi cho vay các ngân hàng cần sử dụng các biện pháp đảm bảo vay vốn như thế chấp, cầm cố
    b. Chiết khấu
    Chiết khấu là hoạt động cho vay gián tiếp mà NHTM sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho ngân hàng. Các đối tượng trong hoạt động này là hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá khác.
    c. Cho thuê tài chính
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...