Luận Văn Xây dựng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng nợ và khuyến nghị cho việt nam

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Julie Nguyễn, 13/11/13.

  1. Julie Nguyễn

    Julie Nguyễn New Member

    Bài viết:
    970
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ngoại Thương
    Hà Nội, tháng 5 năm 2013

    LUẬN VĂN CÓ ĐẦY ĐỦ TRONG FILE WORD
    MỤC LỤC

    CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHỦNG HOẢNG NỢ VÀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NỢ CHO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 1
    1.1 Lý luận chung về Khủng hoảng nợ 1

    1.1.1 Định nghĩa . 1

    1.1.2 Nguyên nhân 5

    1.1.3 Hậu quả 12

    1.2 Xây dựng mô hình cảnh báo sớm cho nền kinh tế Việt Nam . 17

    1.2.1 Một số mô hình cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ . 17

    1.2.2 Lựa chọn mô hình thích hợp cho nền kinh tế Việt Nam 21

    CHƯƠNG II: ÁP DỤNG MÔ HÌNH CẢNH BÁO SỚM KHỦNG HOẢNG NỢ VÀO NỀN KINH TẾ VIỆT NAM 24
    2.1 Lựa chọn các thông số cho mô hình . 24

    2.1.1 Lựa chọn mẫu 24

    2.1.2 Lựa chọn ngưỡng khả thi 26

    2.1.3 Xây dựng chỉ số hỗn hợp 29

    2.1.4 Lựa chọn các biến vĩ mô 31

    2.2 Các kết quả thực nghiệm . 32

    2.2.1 Các kết quả thực nghiệm về ngưỡng khả thi . 32

    2.2.2 Kiểm tra mức độ hiệu quả của các chỉ số hỗn hợp trên mẫu . 34

    2.2.3 Chuỗi chỉ số hỗn hợp thực nghiệm của Việt Nam . 35

    2.2.4 Chuỗi chỉ số hỗn hợp 8 biến thực nghiệm . 37

    2.3 Đánh giá tính hiệu quả của mô hình đối với nền kinh tế Việt Nam . 37

    2.3.1 Thực tiễn tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1997-2011 38

    2.3.2 Đánh giá của các tổ chức quốc tế 56

    2.3.3 Nhìn nhận xác suất Việt Nam rơi vào Khủng hoảng nợ 59

    CHƯƠNG III: CÁC KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM . 61

    3.1 Các khuyến nghị về mô hình 61

    3.1.1 Đề xuất tăng tính hiệu quả của mô hình 61

    3.1.2 Đề xuất thêm các biến mới vào mô hình . 62

    3.2 Các khuyến nghị về chính sách 65

    3.2.1 Đề xuất chính sách đối với việc vay và quản lý nợ công . 65

    3.2.2 Đề xuất chính sách đối với các vấn đề nội tại trong nền kinh tế 83
    PHẦN MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài

    Hiện nay nợ công đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ riêng ở châu Âu, Mỹ, Nhật Bản mà còn nhiều quốc gia đang phát triển khác trên thế giới cũng phải đối mặt, trong đó có Việt Nam. Tính đến năm 2011, tỉ lệ nợ công trên GDP của nhiều quốc gia đã đạt đến mức đáng báo động1, vượt xa ngưỡng khuyến nghị 75% GDP do Quỹ tiền tệ quốc tế đưa ra cho các quốc gia phát triển2, trong đó Nhật Bản là 229.8%, Mỹ 102.9%, Hy Lạp 160.8%, Italia 120.1%, Ireland 105.0% và Bồ Đào Nha là 106.8%. Hệ quả tất yếu của mức nợ cao như trên là cuộc Khủng hoảng nợ công châu Âu bùng nổ năm 2010, bắt đầu từ Hy Lạp và đã lan ra trên nhiều nước châu Âu, tác động nghiêm trọng đến cả khu vực kinh tế tài chính lẫn khu vực kinh tế thực. Trên khu vực kinh tế tài chính, hàng loạt các quốc gia châu Âu bị S&P hạ bậc tín nhiệm, cùng với đó là sự tăng lên nhanh chóng của lợi suất trái phiếu chính phủ, sự sụt giảm giá trị của các tài sản tài chính và sự thoái vốn hàng loạt của các nhà đầu tư. Nhiều quốc gia đã phải nhận các gói cứu trợ từ IMF, ECB và các tổ chức quốc tế khác với những điều kiện chi tiêu ngặt nghèo cùng với sự giám sát chặt chẽ của các tổ chức này. Thị trường tài chính đi xuống, sự mất lòng tin của các nhà đầu tư và nguy cơ tan vỡ của liên minh tiền tệ châu Âu là những hậu quả thấy được của cuộc khủng hoảng. Trên khu vực kinh tế tế thực, Khủng hoảng nợ công châu Âu khiến nhiều quốc gia thành viên tăng trưởng GDP âm, đầu tư sụt giảm, lạm phát và thất nghiệp tăng cao, nền kinh tế nhanh chóng rơi vào suy thoái. Chính phủ nhiều quốc gia buộc phải thắt lưng buộc bụng, tăng thuế và cắt giảm các phúc lợi xã hội. Chính trị trở nên bất ổn, dẫn đến các cuộc biểu tình và bạo động liên tục diễn ra ở Hy Lạp, Tây Ban Nha, Italia và nhiều quốc gia khác, khiến chính phủ không thể kiểm soát được tình hình và liên tục tuyên bố sụp đổ. Tất cả những hậu quả trên chính là cái giá phải trả cho các khoản vay khổng lồ tài trợ cho chi tiêu vượt quá khả năng chi trả của chính phủ.

    Việt Nam từ khi mở cửa tới nay, vẫn bị xếp vào nhóm các quốc gia đang phát triển. Quy mô nền kinh tế vẫn còn nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do vậy hiện tại và trong tương lai, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng cũng như nợ công nói chung là khá cần thiết để Việt Nam có thêm nguồn tài chính đầu tư
    cho cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mức nợ công của Việt Nam năm 2001 mới chỉ là 10.681 tỉ USD (chiếm 33.4% so với GDP), đã tăng lên gần 6 lần là
    61.808 tỉ USD vào năm 2011 (chiếm 51.3% so với GDP), vượt qua mức khuyến nghị 25% GDP của IMF đối với các nền kinh tế mới nổi4. Xác suất vỡ nợ tích lũy (cumulative probability of default) của Việt Nam luôn ở mức trên 20% trong giai đoạn 2011-2012 gần đây; cá biệt trong quý 2 năm 2011, Việt Nam còn đứng thứ 9 trong số những quốc gia có rủi ro vỡ nợ cao nhất. Đây là những dấu hiệu không tốt đối với tình hình nợ công của Việt Nam hiện nay. Nếu một cuộc Khủng hoảng nợ công như vậy xảy ra thì hậu quả của nó khó mà có thể đánh giá hết và phải mất một thời gian dài để chúng ta có thể phục hồi lại được nền kinh tế. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng được một công cụ cảnh báo sớm Khủng hoảng nợ cho nền kinh tế Việt Nam là thực sự cần thiết và hữu dụng. Hay nói một cách chính xác hơn là đưa ra một mô hình qua đó xác định được các dấu hiệu của bất ổn vĩ mô, và từ các dấu hiệu mất bất ổn đó khuyến cáo các cơ quan chức năng điều chỉnh chính sách để các chỉ báo vĩ mô trở lại mức an toàn. Điều này đã thôi thúc chúng tôi nghiên cứu và thực hiện đề tài “Xây dựng mô hình cảnh báo Khủng hoảng nợ và các khuyến nghị cho Việt Nam”.
     

    Các file đính kèm:

    • 45.doc
      Kích thước:
      5.7 MB
      Xem:
      0
    • 45.pdf
      Kích thước:
      1.7 MB
      Xem:
      0
Đang tải...