Thạc Sĩ Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ từ 1930 đến năm 1945

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 29/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    Mở đầu 1
    Chương I: Quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng, Hồ Chí Minh đối
    với công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945
    12

    1.1. Quan điểm của Đảng và Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống tổ chức
    Đảng thời kỳ 1930-1945
    12
    1.2. Sự chỉ đạo của Đảng và Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng hệ
    thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
    33
    Chương II: Qúa trình hình thành và phát triển hệ thống tổ chức Đảng ở
    Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945
    49
    2.1. Hình thành và bảo vệ hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ giai đoạn
    1930-1935
    49
    2.2. Khôi phục hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ giai đoạn 1936-1939 65
    2.3. Khôi phục và phát triển hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ giai đoạn
    1939 -1945
    78
    Chương III: Đặc điểm, phương thức, vai trò và kinh nghiệm xây dựng
    hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945
    107
    3.1. Đặc điểm, phương thức xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ
    thời kỳ 1930-1945
    107
    3.2. Vai trò của công tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức ở Nam Kỳ thời
    kỳ 1930-1945
    114
    3.3. Một số kinh nghiệm 119
    Kết luận 125
    Danh mục tài liệu tham khảo 129 1
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    1.1.Trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
    (từ tháng 10 - 1930 đến tháng 2 - 1951 là Đảng Cộng sản Đông Dương) hơn 80
    năm qua, thời kỳ 1930 - 1945 thể hiện đậm nét bản lĩnh cách mạng kiên cường,
    sức sống mãnh liệt, trí tuệ sáng tạo, sự trưởng thành vượt bậc của Đảng về
    tư duy chính trị, năng lực xác định đường lối cách mạng gắn kết với phương
    pháp chỉ đạo đấu tranh thực tiễn sát hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam và
    xây dựng hệ thống tổ chức. Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta trong các
    cao trào đấu tranh cách mạng 1930 - 1931; 1936 - 1939; 1939 - 1945, tiến tới
    Tổng khởi nghĩa tháng Tám - 1945, giành độc lập, tự do, mở đường phát triển
    cho dân tộc trong thời đại mới.
    Hoạt động của Đảng trong 15 năm đấu tranh giành chính quyền (1930
    - 1945) rất phong phú, có ý nghĩa hết sức to lớn về lý luận và thực tiễn đã thu
    hút nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song đến nay, vẫn còn nhiều vấn đề,
    nhất là công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng các cấp, trong đó có công
    tác xây dựng hệ thống tổ chức các cấp bộ Đảng ở Nam Kỳ chưa được làm
    sáng tỏ hoặc chưa được luận giải thấu đáo.
    1.2. Trong điều kiện hoạt động bí mật, chưa nắm chính quyền, phải đối
    phó với sự đánh phá ác liệt của đối phương, việc xây dựng hệ thống tổ chức
    Đảng ở Nam Kỳ có vị trí đặc biệt quan trọng đối với năng lực lãnh đạo, sức
    chiến đấu của Đảng bộ và sự thành bại của cách mạng ở khu vực này. Hiện
    thực cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc trong thời kỳ 1930-1945 ở
    khu vực Nam Kỳ cho thấy, trong khi các Đảng bộ Bắc Kỳ, Trung Kỳ bị đánh
    phá và tan vỡ trong một thời gian dài, Đảng bộ Nam Kỳ, nhất là cơ quan lãnh
    đạo cấp xứ liên tục được khôi phục và duy trì hệ thống tổ chức. Nhờ xây
    dựng, khôi phục và phát triển hệ thống tổ chức Đảng các cấp từ Xứ uỷ, liên
    tỉnh uỷ đến các đảng bộ địa phương, Đảng bộ Nam Kỳ đã từng bước tạo 2
    dựng và đào luyện được đội quân cách mạng đông đảo, rộng khắp trên địa
    bàn, lãnh đạo các phong trào đấu tranh sôi động của các tầng lớp nhân dân,
    để khi thời cơ đến, phát động cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền kịp
    thời ít đổ máu, góp phần to lớn vào thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa
    trên cả nước, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
    Công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ còn có vai trò đối
    với công cuộc khôi phục của cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông
    Dương cũng như đối với công tác xây dựng Đảng ở các khu vực khác, nhất là
    đối với Nam Trung Kỳ. Có nhiều thời đoạn, nhất là giai đoạn 1930-1935, các
    cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh, liên tỉnh ở Nam Trung Kỳ hoạt động dưới sự lãnh
    đạo của Xứ uỷ Nam Kỳ rồi Liên địa phương chấp uỷ Nam Đông Dương.
    Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác xây dựng hệ thống tổ
    chức Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945 cũng còn một số hạn chế
    trong xây dựng cơ quan lãnh đạo, trong đoàn kết thống nhất về tổ chức, trong
    bảo vệ Đảng
    Những thành tựu, những đặc điểm của quá trình xây dựng hệ thống tổ
    chức Đảng ở Nam Kỳ, sự chủ động sáng tạo cũng như những hạn chế trên
    đây cần phải được nghiên cứu, luận giải, đánh giá xác đáng.
    1.3. Xây dựng Đảng về tổ chức gắn kết hữu cơ với hai mặt chính trị và
    tư tưởng của công tác xây dựng Đảng, là điều kiện không thể thiếu bảo đảm
    cho Đảng thống nhất ý chí và hành động, là nhân tố bảo đảm các mặt lãnh
    đạo của Đảng, nhất là việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong
    cuộc sống.
    Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta xác định nhiệm vụ xây
    dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa
    sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để thực hiện
    tốt nhiệm vụ nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, cần thiết phải
    nghiên cứu, đúc kết, vận dụng những kinh nghiệm lịch sử về xây dựng Đảng 3
    nói chung, về xây dựng hệt hống tổ chức và cán bộ trong thời kỳ đấu tranh
    giành chính quyền, trong đó có những kinh nghiệm về xây dựng hệ thống tổ
    chức Đảng, các cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930 -
    1945.
    Nghiên cứu đề tài “Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ từ
    năm 1930 đến năm1945” để phản ánh hiện thực xây dựng hệ thống tổ chức,
    nhân sự các cấp uỷ ở Nam Kỳ, soi tỏ thêm đặc điểm, tổ chức, hoạt động của
    các cấp bộ Đảng, của các nhân vật lịch sử của Đảng ở khu vực này trong quá
    trình vận động cách mạng trước khi trở thành một đảng cầm quyền; đúc kết
    kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ hệ thống tổ chức Đảng để cung cấp thêm
    những luận cứ khoa học cho công tác xây dựng tổ chức Đảng hiện nay; góp
    phần bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, hiệu chỉnh những nhận định sai lạc,
    thiên kiến về vai trò lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    Đây là vấn đề đã được đề cập ở những mức độ, phạm vi và góc độ
    khác nhau trong các công trình nghiên cứu lịch sử Đảng, lịch sử dân tộc, ở
    các cơ quan nghiên cứu Trung ương và địa phương. Nó cũng được một số
    nhà nghiên cứu nước ngoài, hoặc người Việt Nam ở nước ngoài xem xét.
    2.1. Ngay từ thập kỷ 30 thế kỷ XX, trong các dịp kỷ niệm thành lập
    Đảng hằng năm, những nhà lãnh đạo hay lý luận của Đảng đã công bố nhiều
    bài viết trên báo chí của Quốc tế Cộng sản và của Đảng Cộng sản Đông
    Dương phản ánh về lịch sử và truyền thống đấu tranh của Đảng, trong đó có
    đề cập đến công tác xây dựng hệ thống tổ chức, cơ quan lãnh đạo của Đảng ở
    Nam Kỳ. Đáng chú ý nhất là tài liệu Lược thảo Lịch sử phong trào cộng sản
    Đông Dương của tác giả Hồng Thế Công (tức Hà Huy Tập) thực hiện năm
    1933, hàm chứa nhiều vấn đề lịch sử về sự ra đời của Đảng, trong đó có đề
    cập đến Đảng bộ Nam Kỳ. Tuy nhiên, tác phẩm ít chú ý phân tích sâu về mặt 4
    tổ chức; giới hạn nghiên cứu cũng dừng lại ở những năm đầu của thập kỷ 30
    thế kỷ XX.
    Từ năm 1960, thực hiện chủ trương tăng cường công tác tổng kết kinh
    nghiệm và viết Lịch sử Đảng của Đại hội Đảng lần thứ III (9-1960), nhiều
    công trình nghiên cứu về Lịch sử Đảng được tiến hành. Những công trình
    nghiên cứu của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (nay là Viện Lịch
    sử Đảng), đặc biệt là tác phẩm Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Sơ thảo),
    Tập I (1920-1954), Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, khi đề cập đến tổ chức Đảng
    đã nêu một số nội dung về chủ trương chỉ đạo của Đảng đối với công tác xây
    dựng hệ thống tổ chức Đảng, trong đó có đề cập đến Đảng bộ Nam Kỳ.
    Một số giáo trình về lịch sử Đảng của Trường Chuyên khoa lịch sử
    Đảng (cũ), của Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện
    Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), của Viện Lịch sử Đảng, của
    Bộ Giáo dục và Đào tạo khi trình bày thời kỳ 1930 - 1945 đã đưa ra một nhận
    xét khái lược về công tác tổ chức của toàn Đảng, bao gồm cả Đảng bộ Nam
    Kỳ.
    Nhìn chung, những công trình trên mới dừng lại ở việc nêu chủ trương
    chỉ đạo của Đảng, những kinh nghiệm chung về xây dựng tổ chức; hệ thống
    tổ chức Đảng ở Nam Kỳ, cơ cấu thành phần, xứ uỷ và liên tỉnh uỷ ở Nam Kỳ
    chưa được đề cập hoặc rất vắn tắt; phương pháp gây dựng các tổ chức trên
    chưa được tìm hiểu thấu đáo.
    Một số chuyên khảo về công tác tổ chức của Đảng, như Nguyễn Hữu
    Tri, Nguyễn Thị Phương Hồng, Một số vấn đề đổi mới tổ chức bộ máy Đảng
    Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Trung tâm nghiên
    cứu về tổ chức, Lịch sử công tác tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930
    - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 trong khi trình bày những
    vấn đề lý luận xây dựng Đảng về tổ chức, những quan điểm, chủ trương, sự
    lãnh đạo của Đảng về công tác tổ chức (bao gồm cả tổ chức nội bộ Đảng, tổ 5
    chức đoàn thể quần chúng, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng) qua các
    thời kỳ đã đề cập đến việc xây dựng các cấp uỷ Đảng nói chung, trong đó có
    các cấp uỷ ở Nam Kỳ; tuy nhiên chưa đi sâu nghiên cứu về tổ chức Đảng ở
    khu vực Nam Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
    Trong những năm gần đây, trên Tạp chí Lịch sử Đảng - diễn đàn khoa
    học của ngành Lịch sử Đảng toàn quốc, xuất hiện một số bài nghiên cứu về
    các xứ uỷ, về sự xây dựng hệ thống tổ chức của các đảng bộ Nam Kỳ. Tuy
    nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài tạp chí, các bài viết chủ yếu trình
    bày những nét diễn biến chính, không đi sâu phân tích cụ thể về từng cấp bộ
    cũng như về phương pháp, cách thức hay kinh nghiệm xây dựng tổ chức
    Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930 - 1945.
    2.2. Từ khi khi Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri Số 91-
    TT/TW, ngày 18 - 9 - 1962 Về việc thành lập Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng ở
    các khu, thành, tỉnh, nhất là sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đến
    nay hầu hết các tỉnh, thành phố thuộc khu vực Nam Kỳ trước đây đã hoàn
    thành việc nghiên cứu, biên soạn và xuất bản lịch sử Đảng bộ cấp tỉnh, thành
    phố thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Những công trình này chủ
    yếu đi sâu vào nghiên cứu tổ chức Đảng cấp địa phương, ít đề cập tổ chức
    Đảng cấp xứ uỷ, liên tỉnh uỷ; một số sự kiện và nội dung thiếu chính xác.
    2.3. Một số công trình nghiên cứu về lịch sử dân tộc thời kỳ 1930-
    1945, về 30 năm chiến tranh cách mạng của nhân dân ta (từ 1945 đến 1975)
    phản ánh ở những mức độ khác nhau về hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ
    thời kỳ 1930-1945. Có thể nêu một số công trình: Viện nghiên cứu Chủ nghĩa
    Mác Lênin - Tư tưởng Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Cách mạng
    Tháng Tám 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Hội đồng Chỉ đạo
    biên soạn Lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ, Lịch sử Đảng bộ miền Đông
    Nam Bộ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 -
    1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 .Tuy nhiên, những công trình 6
    này không đi sâu nghiên cứu hệ thống tổ chức của Đảng, sự khảo cứu về tổ
    chức Đảng ở Nam Kỳ rất sơ lược.
    Một số chuyên khảo về đấu tranh yêu nước và cách mạng trong các
    nhà tù đế quốc, như Lịch sử Nhà tù Côn Đảo .cũng phản ánh về công tác
    xây dựng Đảng trong tù, mối quan hệ giữa cơ sở Đảng trong tù với hệ thống
    tổ chức Đảng Nam Kỳ bên ngoài, qua đó nêu lên một số nội dung về công tác
    nhân sự của Xứ uỷ Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945.
    2.4. Các công trình nghiên cứu, kỷ yếu hội thảo khoa học về các lãnh
    tụ của Đảng, hồi ký của các đồng chí lão thành cách mạng cũng phản ánh
    một số khía cạnh về bộ máy tổ chức của Đảng ở Nam Kỳ trong thời kỳ 1930
    - 1945. Có thể kể một số công trình: Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của
    Đảng, một tấm gương bất diệt (Hồi Ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
    2004; Nguyễn Đức Bình, Trịnh Nhu, Những cống hiến của Trần Phú, Tổng
    Bí thư đầu tiên của Đảng, cho cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông
    Dương, cho Đảng ta, Báo Nhân dân, ngày 13, 14, 15 - 2004; Lê Hồng Phong -
    người cộng sản kiên cường (Hồi ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002;
    Nguyễn Văn Cừ - nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam
    (Hồi ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Trường Chinh- một nhân
    cách lớn, một nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam (Hồi ký), Nxb
    Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 Ngoài ra còn có hàng chục bài viết về các
    lãnh tụ của Đảng được đăng tải trên các tạp chí: Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp
    chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xưa & Nay . Các công
    trình trên có đề cập đến hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời Kỳ 1930-
    1945, song còn tản mạn, chưa có hệ thống.
    2.5. Một số cơ quan trấn áp hay quan chức của chính quyền thuộc địa,
    khi tìm kiếm kế sách đàn áp phong trào cộng sản Việt Nam đã tìm hiểu lịch
    sử hình thành và cấu tạo của tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương đầu những
    năm 30 thế kỷ XX. Đáng chú ý là tài liệu Contribution à l’histoire des 7
    mouvements politiques de l’Indochine Francaise, 1925-1933 (Góp phần
    nghiên cứu lịch sử phong trào chính trị ở Đông Dương thuộc Pháp, 1925 -
    1933) do Chánh mật thám Đông Dương L.Marty tổ chức biên soạn ở Hà Nội
    năm 1933, trong đó có một số nội dung về nhân sự, tổ chức Đảng Đảng Cộng
    sản Đông Dương, bao gồm cả Đảng bộ Nam Kỳ. Do quan điểm, lập trường
    thực dân chi phối nên các tài liệu kể trên chứa đựng những nội dung xuyên
    tạc về nguyên tắc tổ chức và mục đích của Đảng. Tuy nhiên, với mục đích
    nghiên cứu phục vụ việc trấn áp, nên các tài liệu đó cũng phản ánh một số
    khía cạnh về cơ cấu tổ chức, các cơ quan lãnh đạo và nhân sự của Đảng mà
    mật thám Pháp thu nhận thông qua các biện pháp nghiệp vụ.
    Một số công trình của các nhà nghiên cứu, sử học trên thế giới như:
    Histore du Vietnam de 1940 - 1952 (Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1952) của
    Philippe Devillers, do Édition du Seuil xuất bản, Paris, 1952; Révolutionaires
    Vietnamiens et Pouvoir colonial en Indochine (Những nhà cách mạng Việt Nam
    và chính quyền thuộc địa ở Đông Dương) của Daniel Hémery, Nxb Francois
    Maspero, Paris, 1975; Vietnamese Communism (1925-1945) (Chủ nghĩa
    Cộng sản Việt Nam 1925 -1945) của Huỳnh Kim Khánh, do Cornell
    University Press xuất bản, Ithaca, London, 1982; La repression coloniale au
    Vietnam (1908-1940) (Sự trấn áp thuộc địa ở Việt Nam) của Patrice Morlat,
    Nxb L’Harmattan, Paris, 1990; Why Vietnam? Tại sao Việt Nam? của
    Archimedes L.A. Patti, Nxb Đà Nẵng, 1995; Vietnam 1945, The quest for
    power (Việt Nam 1945, Cuộc tìm kiếm chính quyền) của David G.Marr,
    xuất bản bởi University of California Press, Berkeley - Los Angeles -
    London, 1995 . khi nghiên cứu về phong trào cộng sản ở Việt Nam, về Cách
    mạng Tháng Tám, có đề cập và đưa ra những đánh giá về hệ thống tổ chức,
    về các cơ quan lãnh đạo cấp Trung ương, cấp xứ uỷ của Đảng thời kỳ 1930-
    1945, trong đó có các cấp uỷ Đảng ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, các tác giả nêu
    trên không đi sâu khảo cứu về hệ thống tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam nói
    chung cũng như Đảng bộ Nam Kỳ. Mặt khác, do lập trường, quan điểm, do 8
    phương pháp nghiên cứu, không tìm hiểu thấu đáo về hệ thống tổ chức và
    hoạt động của Đảng, nên có những tác giả đưa ra những nhận định sai lệch
    với thực tiễn lịch sử, cần phải tiếp tục trao đổi, thảo luận và bác bỏ bằng sự
    thật lịch sử khách quan.
    Như vậy, đến nay, nhiều công trình khoa học bước đầu phản ánh và
    thống nhất khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm, trong chủ trương,
    trong chỉ đạo của Đảng về xây dựng tổ chức Đảng ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-
    1945, tuy nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện
    về Xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến năm 1945.
    Nhiều vấn đề lịch sử, nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử liên quan đến tổ chức
    của Đảng ở Nam Kỳ chưa được phản ánh, hoặc nhìn nhận chưa xác đáng.
    Tuy mức độ liên quan đến đề tài có khác nhau, những công trình nêu
    trên là những tư liệu quan trọng để tác giả tham khảo và kế thừa trong việc
    thu thập, xử lý nguồn sử liệu và phương pháp luận vào quá trình thực hiện đề
    tài.
    3. Mục tiêu nghiên cứu
    - Làm rõ những quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Trung ương
    Đảng, của Hồ Chí Minh đối với công tác xây dựng hệ thống tổ chức Đảng ở
    Nam Kỳ; quá trình hình thành, phát triển, đặc điểm và phương thức xây dựng
    hệ thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ và vai trò của nó trong công tác xây dựng
    Đảng cũng như trong công cuộc vận động cách mạng ở Nam Kỳ từ năm 1930
    đến năm 1945; đúc kết kinh nghiệm xây dựng, bảo vệ hệ thống tổ chức Đảng
    ở Nam Kỳ thời kỳ 1930-1945.
    - Sản phẩm của đề tài góp phần vào việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch
    sử Đảng toàn diện và sâu sắc hơn; góp phần bác bỏ những luận điệu xuyên
    9
    tạc, hiệu chỉnh những nhận định sai lạc, thiên kiến về vai trò lãnh đạo của
    Đảng thời kỳ 1930 - 1945.
    - Kết quả nghiên cứu cung cấp thêm những luận cứ khoa học, gợi mở
    một số kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức hiện nay.
    4. Néi dung nghiªn cøu
    4.1. Bèi c¶nh lÞch sö, yªu cÇu c¸ch m¹ng thêi kú 1930-1945, t¸c ®éng
    chi phèi ®Õn c«ng t¸c x©y dùng hÖ thèng tæ chøc §¶ng ë Nam Kú.
    4.2. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về nguyên tắc tổ
    chức của chính Đảng vô sản. Quan ®iÓm, chñ trư¬ng, ®ưêng lèi cña §¶ng vµ
    cña ®ång chÝ NguyÔn ¸i Quèc vÒ c«ng t¸c x©y dùng tæ chøc §¶ng ë Nam
    Kú, qua c¸c giai ®o¹n 1930-1935, 1935-1939, 1939-1945.
    4.3. Sù chØ ®¹o cña Trung ư¬ng §¶ng ®èi víi c«ng t¸c x©y dùng hÖ
    thèng tæ chøc §¶ng ë Nam Kú qua c¸c giai ®o¹n 1930-1935, 1935-1939,
    1939-1945.
    4.4. Qu¸ tr×nh h×nh thµnh vµ ph¸t triÓn cña hÖ thèng tæ chøc §¶ng ë
    B¾c Kú tõ Xø uû, Liªn tØnh uû, TØnh uû – HuyÖn uû, chi bé §¶ng ë Nam Kú
    (theo c¸c giai ®o¹n lÞch sö 1930-1935, 1936-1939, 1939-1945).
    4.5. §Æc ®iÓm, vai trß, phư¬ng thøc x©y dùng hÖ thèng tæ chøc §¶ng ë
    Nam Kú thêi kú 1930-1945.
    4.6. Mét sè kinh nghiÖm vÒ x©y dùng, b¶o vÖ vµ ph¸t triÓn hÖ thèng tæ
    chøc §¶ng ë Nam Kú thêi kú 1930-1945.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử và logic, thống kê, so sánh, đối
    chiếu, hệ thống tổ chứchội thảo khoa học, toạ đàm lấy ý kiến chuyên gia .để
    tái hiện và bật sự lãnh đạo sáng tạo của Đảng trong quá trình xây dựng hệ
    thống tổ chức Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến 1945. 10
    Đề tài chú trọng sử dung phương pháp đặc trưng của khoa học Lịch sử
    Đảng là lấy các chỉ thị, nghị quyết của Đảng làm cơ sở để soi rọi, đánh giá về
    công tác tổ chức, nhân sự của Đảng ở Nam Kỳ từ năm 1930 đến 1945. Đề tài
    cũng chú trọng phương pháp sử liệu học để phân tích, thẩm định các loại tài
    liệu khác nhau để tái hiện công tác xây dựng hệ thống tổ chứcĐảng ở Nam
    Kỳ từ năm 1930 đến 1945.
    Đối với những tài liệu của mật thám Pháp, nhất là các bản cung, đề tài
    sẽ rất cẩn trọng trong sử dụng và chủ yếu dùng làm tài liệu tham khảo.
    6. Lực lượng nghiên cứu
    Để thực hiện mục tiêu đề ra, chủ nhiệm đề tài đã mời một số cán bộ
    nghiên cứu của Viện Lịch sử Đảng, một số nhà khoa học nghiên cứu chuyên
    sâu thời kỳ 1930-1945 tham gia viết chuyên đề và góp ý bản thảo.
    7. Sản phẩm của đề tài
    - Bản báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, danh
    mục tài liệu tham khảo, bao gồm 3 chương và kết luận với tổng số 117 trang.
    - Bản Kiến nghị rút ra từ kết quả nghiên cứu, 8 trang.
    8. TriÓn väng øng dông
    - Đề tài góp phần làm rõ hơn hiện thực công tác xây dựng Đảng, những
    sáng tạo của Đảng trong cách mạng giải phóng dân tộc trước khi trở thành
    một Đảng cầm quyền; góp phần đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc,
    hiệu chỉnh những nhận định sai lạc về vai trò lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1930
    - 1945.
    - Sản phẩm của đề tài góp phần vào việc nghiên cứu, tuyên truyền và
    giảng dạy Lịch sử Đảng thêm toàn diện và sâu sắc. 11
    - Kết quả nghiên cứu góp phần gợi mở một số kinh nghiệm trong công
    tác xây dựng Đảng về mặt tổ chức, cung cấp thêm những luận cứ bổ sung lý
    luận về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
    9. Kết cấu của Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
    Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, Báo cáo tổng hợp
    kết quả nghiên cứu được kết cấu thành 3 chương và kết luận






    12
    Chương I
    QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG, HỒ
    CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG HỆ THỐNG TỔ
    CHỨC ĐẢNG Ở NAM KỲ THỜI KỲ 1930 - 1945

    1.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh 1 về xây dựng
    hệ thống tổ chức Đảng thời kỳ 1930-1945
    1.1.1.Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng hệ thống tổ
    chức của Đảng Cộng sản
    Khi đề cập đến vấn đề tổ chức và vai trò của nó, những nhà sáng lập
    chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ tổ chức là “vũ khí” chủ yếu của giai cấp vô sản
    trong cuộc đấu tranh giành chính quyền từ tay giai cấp tư sản, xây dựng chủ
    nghĩa cộng sản. Lê nin viết: “Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai
    cấp vô sản không có vũ khí nào khác hơn là sự tổ chức. Bị phân chia vì sự
    cạnh tranh vô chính phủ đang thịnh hành trong thế giới tư bản, bị đè nặng
    dưới sự lao động nô lệ cho tư bản, luôn luôn bị dìm sâu dưới “ tận đáy” của
    cảnh khổ cực, của sự cùng quẫn và của sự thoái hoá, nhưng giai cấp vô sản
    vẫn có thể trở thành – và tất nhiên sẽ trở thành- một lực lượng vô địch, chỉ vì
    một lý do này: sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô sản dựa trên cơ sở
    những nguyên lý của chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống nhất vật
    chất của tổ chức tập hợp hành triệu người lao động thành một đạo quân vô
    địch của giai cấp công nhân ” 2 .

    1 Trong cuộc đời hoạt động, Hồ Chí Minh có nhiều danh xưng, bí danh, bút danh khác nhau. Để
    tiện trình bày, chúng tôi dùng danh xưng Hồ Chí Minh. Tương tự, trong lịch sử hình thành và phát
    triển Đảng Cộng sản Việt Nam mang nhiều danh xưng khác nhau; để tiện trình bày chúng tôi dung
    danh xứng là Đảng.
    2 Lênin Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ Maxcơva, 1978, tr. 490. 13
    Sự “ thống nhất vật chất” của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
    chỉ có thể thực hiện được và biến thành sức mạnh vô địch khi do chính Đảng
    vô sản kiểu mới của chủ nghĩa Lênin lãnh đạo.
    Xuất phát từ luận điểm, Đảng cộng sản là đội tiên phong có tổ chức và
    là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, những nhà sáng lập chủ nghĩa
    Mác- Lênin đã xác lập các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính Đảng
    vô sản, bảo đảm đủ sức lãnh đạo giai cấp vô sản đảm đương và thực hiện
    thắng lợi sứ mệnh được lịch sử nhân loại giao phó. Trong đó, nguyên tắc cơ
    bản, quan trọng nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ
    Trên cơ sở cho rằng không có một đảng chính trị nào có thể tồn tại nếu
    không có tổ chức, trong Điều lệ Liên đoàn những người cộng sản, Mác và
    Ăngghen đã quy định rõ hệ thống cơ cấu tổ chức của Liên đoàn là một chỉnh
    thể thống nhất, tế bào cơ sở của Liên đoàn là công xã có từ 30 đến 20 đảng
    viên; các công xã hợp thành các khu và cơ quan tối cao của Liên đoàn là Đại
    hội, giữa hai kỳ đại hội là Ban Chấp hành Trung ương. Các Ban Chấp hành
    được bầu cử ra và có thể thay thế bất cứ lúc nào. Trong Thư gửi Liên đoàn
    những người cộng sản, Mác và Ăngghen đã không chấp nhận tình trạng mỗi
    thôn xã, mỗi thành phố và mỗi tỉnh lợi dụng cái gọi là tự trị, tự do của địa
    phương đã gây ra nhiều trở ngại cho sự hoạt động thống nhất của Liên đoàn.
    Về phương diện lý luận, Mác và Ăngghen chưa dùng khái niệm
    nguyên tắc tập trung dân chủ, nhưng về phương diện thực tiễn thì hai ông đã
    chỉ đạo xây dựng Liên đoàn những người cộng sản và Hội liên hiệp công
    nhân quốc tế theo tinh thần của nguyên tắc đó. Một số nội dung cơ bản của
    nguyên tắc tập trung dân chủ như vấn đề bầu cử, dân chủ, bình đẳng; quyền
    thảo luận, thông qua cương lĩnh, điều lệ; cấp dưới phục tùng cấp trên; thiểu
    số phục tùng đa số; mọi thành viên đều có trách nhiệm thực hiện kỷ luật bắt
    buộc như nhau đã được Mác và Ăngghen đề cập. 14
    Là người kế tục xuất sắc sự nghiệp của Mác - Ăngghen, Lênin đã vận
    dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển tư tưởng của hai ông về vấn đề tập trung
    dân chủ. Lênin nhấn mạnh rằng chính đảng của giai cấp vô sản phải là một
    chỉnh thể thống nhất “hết sức có tổ chức” 1 và tập trung dân chủ là một
    nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng.
    Khái niệm “tập trung dân chủ” được Lênin sử dụng từ năm 1905, sau
    đó được đưa vào Điều lệ của Đảng công nhân dân chủ – xã hội Nga (Đại hội
    IV - 1906) và được các đảng trong Quốc tế III thừa nhận. Theo đó, Đảng tổ
    chức và hoạt động theo nguyên tắc “cấp dưới phải phục tùng cấp trên” 2 , “bộ
    phận phục tùng toàn bộ và thiểu số phục tùng đa số ( ) phân công, dưới
    quyền lãnh đạo của một cơ quan Trung ương” 3 .
    Lênin viết: “cần phải thừa nhận để thực hiện thống nhất: 1) Thiểu số
    phải phục tùng đa số (không nên nhầm lẫn với đa số và thiểu số giữa ngoặc
    kép! đây là nói về nguyên tắc tổ chức của đảng nói chung, chứ không phải về
    sự thống nhất của “phái thiểu số” với “phái đa số” mà sau này nói đến ).
    2) Cơ quan tối cao của đảng phải là đại hội, tức là cuộc họp của những
    người được tất cả các tổ chức có thẩm quyền bầu ra, và các nghị quyết của
    những người ấy phải có tính chất tối hậu quyết định . 3) Bầu cử cơ quan
    trung ương của đảng phải trực tiếp và tiến hành tại đại hội. Bầu cử ngoài đại
    hội, bầu cử qua hai cấp, .v.v., đều không thể chấp thuận được. 4) Tất cả mọi
    thứ sách báo đảng, của trung ương cũng như của địa phương, tuyệt đối phải
    phục tùng đại hội của đảng và phục tùng tổ chức tương đương của đảng ở
    trung ương hay địa phương. Không thể cho phép tồn tại những sách báo nào
    của đảng không có liên hệ về mặt tổ chức với đảng. 5) Khái niệm tư cách
    đảng viên phải được qui định thật rõ ràng. 6) Quyền hạn của mọi phái thiểu
    số trong đảng cũng phải được qui định rõ ràng như thế trong điều lệ đảng

    1 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 286.
    2 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 429
    3 V.I.Lênin, Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, , tr.460-461 15
    đó là những nguyên tắc tổ chức tuyệt đối không thể thiếu, nếu không thừa
    nhận thì không thể thống nhất ” 1 .
    Về mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung, Lênin chỉ rõ “Để cho sự
    phát triển và thống nhất của đảng dân chủ – xã hội thu được kết quả thì cần
    nhấn mạnh, phát triển, đấu tranh cho nguyên tắc dân chủ rộng rãi trong tổ
    chức của đảng, điều này trở nên đặc biệt cần thiết .” 2 . Song, thực hành dân
    chủ rộng rãi trong Đảng phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung. Lênin phê phán
    những tư tưởng muốn tách khỏi sự lãnh đạo thống nhất của trung ương, đòi
    thiết lập chế độ tự trị địa phương ở trong đảng. Người nêu rõ: “ở đây, tôi cần
    phải vạch rõ cái xu hướng không thể chối cãi được nhằm bênh vực chế độ tự
    trị, chống lại chế độ tập trung, là một đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ
    nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức” 3 .
    Lênin cho rằng: Cần phải hiểu chế độ tập trung dân chủ, một mặt thật
    khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và mặt khác, thật khác xa chủ
    nghĩa vô chính phủ.
    Đi liền với nguyên tắc tập trung dân chủ là việc xây dựng và thực hành
    nghiêm túc kỷ luật đảng. Lênin viết: “đảng cộng sản chỉ có thể hoàn thành
    nhiệm vụ của mình nếu đảng được tổ chức một cách tập trung nhất, nếu
    trong đảng có một kỷ luật sắt, gần giống như kỷ luật quân sự, và nếu Trung
    ương Đảng là một cơ quan có uy tín mạnh mẽ, có quyền lực rộng rãi, được
    toàn thể đảng viên tin cậy” 4 . Việc thi hành kỷ luật trong Đảng phải tuân thủ
    nguyên tắc tập trung dân chủ. Lênin chỉ rõ: “Bất kỳ ai đã nắm được những
    nguyên tắc của mọi tổ chức đảng nói chung, cũng đều thấy rõ kỷ luật đối với
    cấp dưới là do kỷ luật đối với cấp trên quyết định; kỷ luật đối với Hội đồng

    1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 11, tr.207-208.
    2 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1975, tập 6, tr.176.
    3 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 8, tr.466.
    4 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxơcơva, 1979, tập 41, tr. 253. đảng là do sự phục tùng của Hội đồng đảng đối với những người ủy thác nó,
    tác là đối với toàn bộ các ban chấp hành, đối với đại hội đảng quyết định” 1 .
    Đồng thời với việc xác lập nguyên tắc tập trung dân chủ, những nhà
    sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin cũng xác định hệ thống tổ chức của Đảng
    xây dựng theo nguyên tắc lãnh thổ, nguyên tắc nghề nghiệp và nguyên tắc
    dân tộc.
    Lênin chỉ rõ, tổ chức đảng phụ trách từng vùng lãnh thổ là tổ chức cao
    nhất trong mối quan hệ đối với tất cả các tổ chức đảng phụ trách từng bộ
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...