Tiến Sĩ Xây dựng hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói cho sinh viên sư phạm ở học phần Tiếng Việt thực hà

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 28/11/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    MỞ ĐẦU 1
    1 Lí do chọn đề tài 1
    2 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
    3 Tổng quan các công trình có liên quan tới vấn đề nghiên cứu 7
    3.1 Tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan ở nước ngoài 7
    3.2 Tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan ở trong nước 11
    3.3 Nhận xét chung 19
    4 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 20
    5 Phương pháp nghiên cứu 21
    6 Giả thuyết khoa học 22
    7 Những đóng góp mới của luận án 23
    8 Cấu trúc của luận án 23
    PHẦN NỘI DUNG 24
    Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC XÂY DỰNG HỆ
    THỐNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NÓI CHO
    SINH VIÊN SƯ PHẠM Ở HỌC PHẦN TIẾNG VIỆT
    THỰC HÀNH



    24
    1.1 Cơ sở lí luận 24
    1.1.1 Một số nội dung cơ bản của lí thuyết giao tiếp và lí thuyết dạy
    học hiện đại có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kĩ
    năng nói cho sinh viên sư phạm


    24
    1.1.1.1 Phát triển kĩ năng nói cho sinh viên sư phạm dưới góc nhìn
    của lí thuyết giao tiếp

    24
    1.1.1.2 Phát triển kĩ năng nói cho sinh viên sư phạm dưới góc nhìn của
    lí thuyết dạy học hiện đại

    34
    1.1.2 Xác định những kĩ năng nói bộ phận cần phát triển cho sinh
    viên sư phạm

    42
    1.1.2.1 Căn cứ xác định các kĩ năng nói bộ phận 42
    1.1.2.2 Những kĩ năng nói bộ phận cần phát triển cho sinh viên SP 48


    1.1.3 Khái niệm về bài tập và vai trò của hệ thống bài tập phát triển
    kĩ năng nói cho sinh viên sư phạm

    53
    1.1.3.1 Khái niệm bài tập và bài tập phát triển kĩ năng nói 53
    1.1.3.2 Vai trò của hệ thống bài tập đối với việc phát triển kĩ năng nói
    cho sinh viên sư phạm

    55
    1.2 Cơ sở thực tiễn 57
    1.2.1 Về học phần Tiếng Việt thực hành trong các trường sư phạm 57
    1.2.2 Về hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói cho sinh viên sư
    phạm ở học phần Tiếng Việt thực hành

    58
    1.2.3 Về thực trạng kĩ năng nói của sinh viên ở một số trường/khoa
    sư phạm

    61
    1.2.3.1 Kĩ năng dẫn nhập 63
    1.2.3.2 Kĩ năng thông báo 65
    1.2.3.3 Kĩ năng trao đổi thảo luận 67
    1.2.3.4 Kĩ năng thuyết phục 68
    1.2.3.5 Kĩ năng kết thúc 70
    Chương 2 HỆ THỐNG BÀI TẬP PHÁT TRIỂN KĨ NĂNG NÓI Ở
    HỌC PHẦN TIẾNG VIỆT THỰC HÀNH

    74
    2.1 Nguyên tắc xây dựng hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói ở
    học phần Tiếng Việt thực hành

    74
    2.1.1 Hệ thống bài tập Tiếng Việt thực hành phải góp phần thực hiện
    mục tiêu dạy học kĩ năng nói

    74
    2.1.2 Hệ thống bài tập TVTH phải đảm bảo được tính hệ thống, tính
    chính xác, khoa học trong việc phát triển KNN cho sinh viên

    75
    2.1.3 Hệ thống bài tập phát triển KNN vừa phải phù hợp với trình độ
    của SV, vừa đảm bảo tính đa dạng để tạo nên sức hấp dẫn

    77
    2.1.4 Hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói phải góp phần thể hiện
    phương pháp dạy học tích cực

    78
    2.1.5 Hệ thống bài tập phát triển KNN cho SVSP cần phản ánh được
    thực tiễn hoạt động nghề nghiệp của GV ở trường phổ thông

    79
    2.2 Quy trình xây dựng hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói ở
    học phần Tiếng Việt thực hành

    80


    2.2.1 Xác định mục đích xây dựng hệ thống bài tập 80
    2.2.2 Xác định chủ đề của hệ thống bài tập 81
    2.2.3 Xác định các dạng bài tập sẽ xây dựng 82
    2.2.4 Xây dựng ma trận hệ thống bài tập 82
    2.2.5 Thực hiện xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt thực hành 86
    2.2.6 Thử nghiệm và điều chỉnh hệ thống bài tập 87
    2.3 Hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói ở học phần Tiếng Việt
    thực hành

    87
    2.3.1 Nhóm bài tập phát triển kĩ năng dẫn nhập 87
    2.3.2 Nhóm bài tập phát triển kĩ năng thông báo 93
    2.3.3 Nhóm bài tập phát triển kĩ năng trao đổi thảo luận 100
    2.3.4 Nhóm bài tập phát triển kĩ năng thuyết phục 106
    2.3.5 Nhóm bài tập phát triển kĩ năng kết thúc 112
    2.3.6 Nhóm bài tập phát triển tổng hợp các kĩ năng nói 117
    2.4 Phương hướng vận dụng hệ thống bài tập phát triển kĩ năng nói
    cho SVSP vào thực tiễn dạy học Tiếng Việt thực hành
    126
    2.4.1 Mục đích, yêu cầu vận dụng 126
    2.4.2 Nội dung vận dụng 127
    2.4.3 Cách thức vận dụng 128
    Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 132
    3.1 Mục đích, nội dung, quy trình thực nghiệm 132
    3.1.1 Mục đích thực nghiệm 132
    3.1.2 Nội dung thực nghiệm 133
    3.1.3 Quy trình tiến hành thực nghiệm 134
    3.2 Địa bàn và đối tượng thực nghiệm 135
    3.2.1 Địa bàn thực nghiệm 135
    3.2.2. Đối tượng thực nghiệm 137
    3.3 Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm 140
    3.3.1 Quá trình tổ chức hoạt động học thực nghiệm 140
    3.3.2 Quá trình nhận thức và thực hành kĩ năng nói của SV qua các
    bài tập thực nghiệm

    140


    3.3.3 Quá trình nhận thức và thực hành kĩ năng nói của SV qua các
    bài kiểm tra

    144
    3.3.3.1 Bài kiểm tra trước thực nghiệm 144
    3.3.3.2 Bài kiểm tra sau thực nghiệm 145
    3. 4 Phương pháp xử lí kết quả thực nghiệm 147
    3.5 Kết quả thực nghiệm 149
    3.5.1 Giai đoạn thực nghiệm vòng 1 149
    3.5.1.1. Đánh giá về bộ công cụ trước và sau thực nghiệm 149
    3.5.1.2 Đánh giá về kĩ năng nói của sinh viên trước thực nghiệm 151
    3.5.1.3 Đánh giá về kĩ năng nói của sinh viên sau thực nghiệm 154
    3.5.2 Giai đoạn thực nghiệm vòng 2 157
    3.5.2.1 Đánh giá về bộ công cụ trước và sau thực nghiệm 157
    3.5.2.2 Đánh giá về kĩ năng nói của sinh viên trước thực nghiệm 158
    3.5.2.3 Đánh giá về kĩ năng nói của sinh viên sau thực nghiệm 160
    3.6 Một số kết luận qua thực nghiệm 163
    KẾT LUẬN 167
    DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 172
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 173
    PHỤ LỤC 184



    1
    MỞ ĐẦU
    1. Lí do chọn đề tài
    1.1. Kĩ năng nói có vai trò rất quan trọng đối với sinh viên sư phạm
    Hình thành và phát triển toàn diện các kĩ năng sử dụng tiếng Việt
    (nghe, nói, đọc, viết) là một trong những mục tiêu quan trọng trong dạy học
    Ngữ văn nói chung và Tiếng Việt nói riêng. Điều này đã được thể chế hoá
    trong tất cả các chương trình dạy học Văn - Tiếng Việt mà Bộ Giáo dục và
    Đào tạo ban hành từ Tiểu học đến Đại học. Cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc,
    viết đều có ý nghĩa hết sức quan trọng với mỗi con người, song kĩ năng nói
    (KNN) đang ngày càng khẳng định vị trí của nó. Bởi trong thực tế cuộc sống,
    KNN đóng vai trò như một loại công cụ cần thiết với tất cả mọi người. Sở hữu
    KNN tốt, thực hiện giao tiếp hiệu quả sẽ giúp con người có cơ hội thể hiện ý
    tưởng của bản thân trong các tình huống giao tiếp bằng lời. Với sinh viên sư
    phạm (SVSP) - những giáo viên tương lai - thì việc rèn luyện, phát triển KNN
    càng trở nên cần thiết. Bởi xét về bản chất, dạy học chính là một quá trình
    giao tiếp giữa giáo viên và học sinh (HS), nhằm đạt được mục tiêu giáo dục.
    Giáo viên phải thường xuyên sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt nội dung dạy học,
    trao đổi, dẫn dắt học sinh nắm vững kiến thức, phát triển kĩ năng, hình thành
    năng lực. Vì vậy, việc sử dụng ngôn ngữ một cách hiệu quả, giàu sức thuyết
    phục, tạo nên được những tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới lí trí và tình cảm của
    học sinh cũng sẽ góp phần giúp cho GV hoàn thành tốt nhiệm vụ.
    Do đặc thù nghề nghiệp, giáo viên không chỉ làm việc với học sinh mà
    còn phải thường xuyên cộng tác cùng đồng nghiệp trong hoặc ngoài nhà
    trường, gặp gỡ phụ huynh học sinh và tham gia các hoạt động ở cộng đồng
    Với mỗi đối tượng, giáo viên phải linh hoạt trong giao tiếp, thể hiện qua lời
    nói, hành động và cử chỉ đúng mực, phù hợp, hướng đến mục tiêu giáo dục
    cần đạt. Vì vậy bên cạnh năng lực chuyên môn, thì năng lực sử dụng ngôn
    ngữ (trong đó có kĩ năng nói) cũng trở thành yêu cầu hết sức quan trọng đối
    với mỗi giáo viên.


    2
    1.2. Vấn đề phát triển kĩ năng nói cho sinh viên sư phạm vẫn chưa
    được chú trọng
    Theo kết quả điều tra từ một cuộc khảo sát thuộc Dự án đào tạo giáo
    viên thì chương trình đào tạo của các trường/khoa sư phạm tại Việt Nam còn
    nặng về lí thuyết, nhẹ thực hành, chưa chú trọng đúng mức tới vấn đề phát
    triển kĩ năng nghề nghiệp. Và một trong những khuyến nghị quan trọng được
    đưa ra để cải cách đào tạo giáo viên ở nước ta là: “Các trọng điểm về chương
    trình dạy học của khoa học giáo dục trong đào tạo giáo viên cần nhấn mạnh
    tới giao tiếp, tương tác, và giải quyết xung đột như là những phần tử cơ bản
    của hoạt động dạy và học.” [25]. Thực tế đã cho thấy, trong danh mục các học
    phần bắt buộc của chương trình khung 14 ngành sư phạm do Bộ Giáo dục và
    Đào tạo ban hành ngày 28 tháng 06 năm 2006 [10] không có học phần nào
    trực tiếp đề cập đến vấn đề rèn luyện và phát triển KNN cho SV. Tuy nhiên
    khi triển khai chương trình chi tiết, tùy thuộc vào đặc thù của từng khoa, các
    trường đã bổ sung một số học phần như: Tiếng Việt thực hành; Rèn luyện kĩ
    năng sử dụng tiếng Việt; Kĩ năng giao tiếp; Giao tiếp sư phạm. Đây là những
    học phần có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kĩ năng nghề nghiệp
    (trong đó có KNN) cho SV; song các nội dung, phương pháp thực hành chưa
    thỏa đáng, chưa đảm nhiệm được sứ mệnh mà mục tiêu môn học đặt ra.
    Bên cạnh đó, việc sử dụng khá phổ biến phương pháp dạy học thuyết
    trình (thầy giảng, trò nghe) tại các trường/khoa sư phạm đã làm giảm đi các
    cơ hội được rèn luyện, phát triển kĩ năng nói của sinh viên sư phạm. Theo kết
    quả nghiên cứu của nhóm tác giả Đào Thái Lai về thực trạng đổi mới phương
    pháp dạy học ở Đại học thì nhóm phương pháp thuyết trình được GV thường
    xuyên sử dụng nhất (60,1%); nhóm phương pháp dạy học có khả năng phát
    huy tính tích cực, chủ động của SV, có ưu thế trong việc phát triển KNN như
    thảo luận, làm việc nhóm chỉ chiếm 35,2%; tổ chức seminar chiếm 20,1%;
    đóng vai chiếm 6,2% [69; tr 66]. Khi GV hạn chế sử dụng những phương
    pháp dạy học có tính tương tác cao cũng đồng nghĩa với việc SV bị giảm đi
    những cơ hội được giao tiếp, trình bày, phát biểu trước tập thể. Và như vậy,


    3
    KNN dù có vai trò rất quan trọng đối với SVSP, nhưng họ vẫn chưa được rèn
    luyện thường xuyên trong quá trình học tập.
    Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong các trường sư
    phạm hiệ nay cũng là một nguyên nhân khiến việc phát triển KNN cho SV
    chưa được chú trọng. Các kì thi, kiểm tra hầu hết đều dùng hình thức viết, còn
    hình thức vấn đáp rất ít được sử dụng (kể cả những học phần mang bản chất
    thực hành, rèn luyện kĩ năng như Tiếng Việt thực hành, Kĩ năng giao tiếp,
    Giao tiếp sư phạm ). Nếu SV có được đánh giá trong khi tham gia thảo luận,
    trình bày kết quả làm việc nhóm, phát biểu trả lời các câu hỏi, thì GV thường
    quan tâm về nội dung nói (nói những gì) mà chưa quan tâm về cách nói (nói
    như thế nào). Vì vậy, một hiện tượng có tính chất dây chuyền diễn ra là đa số
    SV “nói như đọc” những nội dung đã chuẩn bị, các yếu tố phi ngôn ngữ chưa
    được khai thác hiệu quả, sắc thái biểu cảm của lời nói chưa được chú ý.
    Để góp phần giải quyết những bất cập trên thì các trường/khoa sư phạm
    nên quan tâm hơn tới việc rèn luyện, phát triển KNN cho SVSP ngay trong
    thời gian đào tạo tại trường.
    1.3. Kĩ năng nói của sinh viên sư phạm còn bộc lộ những hạn chế so với
    yêu cầu của nghề nghiệp
    Năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Chuẩn nghề nghiệp
    giáo viên trung học” [11] quy định các yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực
    đối với người giáo viên nhằm đáp ứng mục tiêu của giáo dục Trung học cơ sở
    và Trung học phổ thông. Theo đó, việc đánh giá giáo viên được dựa trên 6
    tiêu chuẩn, với 25 tiêu chí. Điều đáng lưu ý là có tới 9/25 tiêu chí liên quan
    mật thiết đến KNN của GV. Ví dụ như tiêu chí 3,4,5 (ứng xử với học sinh,
    ứng xử với đồng nghiệp, lối sống tác phong) của tiêu chuẩn 1; tiêu chí 6, 7
    (tìm hiểu đối tượng giáo dục , tìm hiểu môi trường giáo dục) của tiêu chuẩn 2;
    tiêu chí 13 (xây dựng môi trường học tập) của tiêu chuẩn 3; tiêu chí 22, 23
    (phối hợp với gia đình học sinh và cộng đồng, tham gia hoạt động chính trị,
    xã hội) của tiêu chuẩn 5. Muốn thực hiện tốt những tiêu chí này người giáo
    viên rất cần đến KNN hiệu quả bởi xuyên dọc quy trình thực hiện là hoạt
    động giao tiếp của giáo viên với những đối tượng khác nhau như: học sinh,
    đồng nghiệp, phụ huynh, các tổ chức ở cộng đồng


    4
    Kĩ năng nói của GV có một số yêu cầu riêng gắn với đặc thù nghề
    nghiệp. Trong giao tiếp với học sinh, lời nói của GV vừa phải thể hiện được
    tính mô phạm (chuẩn mực) vừa phải rõ ràng, gần gũi giúp học sinh dễ dàng
    nắm bắt được toàn bộ nội dung thông tin; ngữ điệu giọng nói phải thể hiện
    cảm xúc tương ứng với tính chất nội dung truyền tải, âm lượng giọng nói
    thích hợp, tốc độ nói vừa phải Các biểu hiện phi ngôn ngữ trong giao tiếp
    của GV cần mang lại những cảm xúc tích cực đối với học sinh. Đối chiếu với
    các yêu cầu trên, có thể thấy KNN của SVSP hiện nay vẫn còn những hạn
    chế. Một bộ phận không nhỏ SV chưa thực sự tự tin trong quá trình giao tiếp,
    còn bộc lộ sự rụt rè, thiếu thuyết phục, không rõ trọng tâm khi trình bày một
    vấn đề, xử lí các tình huống chưa linh hoạt Kết quả nghiên cứu khảo sát
    gần đây của tác giả Nguyễn Thị Mĩ Lộc [75] đã chỉ ra rằng, có khoảng 80%
    SVSP gặp khó khăn trong giao tiếp; 36,1% SV cho biết họ ngại nêu thắc mắc,
    ngại nói ra ý tưởng riêng của mình trong các cuộc thảo luận trên lớp; có
    22,9% SV chỉ thích thầy/cô giảng cho mình nghe hơn là chủ động hỏi, trao
    đổi cùng họ Theo chúng tôi, một trong những nguyên nhân của hạn chế này
    là nhà trường chưa quan tâm thỏa đáng tới việc phát triển KNN cho học sinh.
    Từ khi học phổ thông đến lúc tốt nghiệp các trường/khoa sư phạm, các em
    đều thiếu một quá trình rèn luyện KNN, thiếu những cơ hội được thực hành kĩ
    năng trình bày, phát biểu trước tập thể. Vì vậy, nhiều GV trẻ mới ra trường
    khá vững về kiến thức chuyên môn nhưng kĩ năng trình bày, dẫn dắt, gợi
    mở, thuyết phục chưa tốt nên học sinh vẫn cảm thấy khó hiểu hoặc chưa
    hứng thú với giờ học. Một số hiện tượng như GV buột miệng xưng “cháu”
    trước hội nghị phụ huynh, không tự tin khi trình bày ý kiến trong sinh hoạt
    tổ chuyên môn; chỉ trao đổi với người bên cạnh mà không mạnh dạn phát
    biểu trong các cuộc họp, hội thảo đã cho thấy những hạn chế nhất định
    của họ về KNN. Tuy nhiên, KNN hiệu quả không thể có được trong một
    thời gian ngắn mà cần một quá trình rèn luyện hệ thống và bài bản với thái
    độ tích cực, cầu thị của người học. Vì vậy, theo chúng tôi để góp phần giải
    quyết mâu thuẫn giữa thực tế và yêu cầu cần đạt như đã phân tích ở trên thì
    cần có những công trình nghiên cứu chuyên sâu nhằm phát triển KNN cho
    sinh viên sư phạm.


    5
    1.4. Tiếng Việt thực hành là một học phần có nhiều tiềm năng trong việc
    phát triển kĩ năng nói cho sinh viên
    Từ năm học 1995-1996, khi bắt đầu thí điểm hình thức đào tạo đại
    cương, học phần Tiếng Việt thực hành được đưa vào chương trình của tất cả
    các trường CĐ-ĐH. Kết thúc thời gian thí điểm, một số trường ĐH vẫn tiếp tục
    dạy học phần này ở hầu hết các khoa (Đại học Thái Nguyên, Đại học Vinh, Đại
    học sư phạm Hà Nội 2 .) một số trường chuyển thành môn học tự chọn cho
    những khoa đặc thù (Đại học Sư phạm Hà Nội 1, Đại học Sư phạm Thành phố
    HCM, Đại học Huế .). Ở các trường/khoa sư phạm bậc CĐ, học phần này được
    duy trì giảng dạy ở hầu hết các khoa/bộ môn. Mục tiêu của học phần là củng cố
    hệ thống tri thức cơ bản về tiếng Việt ở các bình diện ngữ âm - chính tả, từ
    vựng, cú pháp và văn bản, trên cơ sở đó rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt
    cho SV. Tuy nhiên, theo khung chương trình được ban hành, các giáo trình, tài
    liệu phục vụ môn học đều tập trung vào rèn luyện kĩ năng đọc, viết, chưa chú
    trọng đến kĩ năng nghe, nói. Trong khi đó, việc phát triển KNN cho SVSP là
    rất cần thiết bởi đây sẽ là công cụ quan trọng, có tác động không nhỏ đến hiệu
    quả dạy học và giáo dục cũng như các hoạt động giao tiếp khác có liên quan tới
    nhiệm vụ của giáo viên.
    Bản chất của học phần Tiếng Việt thực hành là thực hành nên việc phát
    triển KNN cho SVSP sẽ rất thuận lợi nếu tính chất này được chú ý đúng mức
    ngay từ khi xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu, đến việc lựa chọn nội
    dung, phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra đánh giá. Tuy nhiên khi
    biên soạn giáo trình TVTH, các tác giả chưa dành sự quan tâm thoả đáng cho
    việc phát triển KNN ở người học. Theo các tác giả, nguyên nhân chủ yếu là
    do “ thời gian có hạn, môn Tiếng Việt thực hành chỉ tập trung trước hết vào
    việc rèn luyện các năng lực viết (tạo lập) và đọc hiểu (lĩnh hội) các văn bản,
    nhất là các văn bản khoa học, hành chính và nghị luận” [113]. Do đó, việc dạy
    học Tiếng Việt thực hành cho SVSP hiện nay chưa khai thác được tiềm năng
    thế mạnh của học phần, chưa hỗ trợ được nhiều những kĩ năng cần thiết như
    KNN cho các GV tương lai. Bởi lẽ “kĩ năng giao tiếp, thuyết trình đã và đang
    trở thành những kĩ năng cơ bản, có ý nghĩa nền tảng để phát triển nguồn nhân


    6
    lực chất lượng cao của mỗi quốc gia, giúp người lao động có thêm hành trang
    cần thiết vững bước vào cuộc cạnh tranh trong một nền kinh tế toàn cầu và
    hội nhập” [98]. Song phát triển KNN cho SV ở học phần TVTH như thế nào,
    có thể tích hợp mục tiêu này ra sao trong những học phần liên quan khác?
    Có hay không những KNN mang tính chất đặc thù cần phát triển cho SV ở
    mỗi ngành, nghề đào tạo? Nội dung dạy KNN là gì, phương pháp dạy học và
    kiểm tra đánh giá như thế nào để việc phát triển KNN thực sự hiệu quả? .
    Đó là những vấn đề cần được lí giải một cách thấu đáo để tìm ra các biện
    pháp cụ thể nhằm phát triển KNN cho SVSP.
    Xuất phát từ những lí do trên đây, NCS đã lựa chọn đề tài “Xây dựng
    hệ thống bài tập phát triển KNN cho sinh viên sư phạm ở học phần Tiếng Việt
    thực hành” với mong muốn SVSP sẽ có thêm những cơ hội và cách thức để
    rèn luyện, phát triển KNN - một kĩ năng quan trọng mà bất cứ người GV nào
    muốn thành công trong sự nghiệp của mình cũng cần phải chiếm lĩnh và làm
    chủ được nó.
    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    2.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình dạy học học phần Tiếng
    Việt thực hành ở trường sư phạm và hệ thống bài tập phát triển các kĩ năng sử
    dụng tiếng Việt trong đó có KNN.
    2.2. Phạm vi nghiên cứu
    Vấn đề phát triển KNN cho học sinh, SV nói chung và SVSP nói riêng
    còn mới cả trong nghiên cứu lí luận cũng như trong thực tiễn triển khai ở
    nước ta hiện nay. Vì vậy, luận án không có tham vọng giải quyết mọi yêu
    cầu của đề tài một cách hoàn chỉnh cả về lí luận và thực tiễn, mà chỉ coi
    đây là những bước đầu tiên nhằm xác định vai trò quan trọng của vấn đề
    phát triển KNN cho SVSP; hiện thực hóa một phần nhiệm vụ phát triển
    KNN cho những GV tương lai bằng việc xây dựng HTBT để sử dụng trong
    dạy học học phần TVTH. Tuy nhiên do tính chất giao thoa của các chuyên
    ngành khoa học giáo dục, nên một số bài tập vẫn có thể dùng ở các học


    7
    phần khác có liên quan như: Kĩ năng giao tiếp, Thực hành rèn luyện nghiệp
    vụ sư phạm, Tâm lí học sư phạm
    - Đối tượng SVSP mà luận án hướng tới để thực hiện việc phát triển KNN
    là SV cao đẳng sư phạm hệ chính quy. Bản thân họ đã sử dụng khá thuần thục
    ngôn ngữ mẹ đẻ, lại được nhà trường trang bị về kiến thức tiếng Việt một cách
    hệ thống, bài bản. Vì vậy, sản phẩm thực hành KNN của SV ở dạng nói độc lập
    (thuyết trình) sẽ tập trung vào một phần hoặc cả bài trình bày, ở dạng nói tương
    tác (hội thoại) sẽ tập trung vào các đơn vị là đoạn thoại hoặc cuộc thoại.
    3. Tổng quan các công trình có liên quan tới vấn đề nghiên cứu
    3.1. Tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan ở nước ngoài
    Nhiều trường đại học trên thế giới, đã rất chú trọng tới việc phát triển
    KNN cho SV. Chương trình đào tạo của các trường này đều có những học
    phần hướng tới mục tiêu rèn luyện phát triển KNN. Tiêu biểu như Viện Đại
    học Texas Tech (Hoa Kì) có học phần “Oral Communication” (Giao tiếp bằng
    lời); Đại học Harvard có học phần “Creating Community in the Classroom”
    (Giao tiếp sáng tạo trong lớp học); Viện đại học Feris State (Hoa Kì) có học
    phần “Fundamentals of Public Speaking” (Những nguyên tắc nói trước đám
    đông) [76]. Phát triển KNN cho SV cũng là vấn đề thu hút sự quan tâm của
    nhiều nhà nghiên cứu. Điều này được thể hiện rõ trên những phương diện sau:
    Về tầm quan trọng của việc phát triển KNN cho SV: Điểm chung nhất
    có thể nhận thấy ở các tài liệu này là đã xác định rất rõ vai trò quan trọng của
    KNN; từ đó xây dựng mục tiêu của việc học KNN là để SV có thể giao tiếp
    tốt trong cuộc sống cá nhân, hay nơi làm việc tương lai, trong tương tác xã
    hội, hay khi thực hiện những nỗ lực chính trị của họ. Tác giả M. Mojibur
    Rahman trong tài liệu “Teaching Oral Communication Skills: A Task-based
    Approach” [137] cho rằng: “Sinh viên cần được học để biết sử dụng mọi lợi
    thế, tiềm năng của bản thân khi giao tiếp vì kĩ năng giao tiếp hiệu quả là một
    trong những “chìa khóa” mấu chốt nhất để mỗi người có thể giải quyết tốt
    công việc của mình.” Trong cuốn “Speaking for yourself: a guide for
    students” [141] Robert Barrass cũng khẳng định: “Sinh viên tốt nghiệp đại
    học cần phải chứng minh được khả năng tư duy phản biện và giao tiếp hiệu


    8
    quả. Đây là những kĩ năng cần thiết không chỉ để họ sớm có được việc làm
    mà còn giúp họ tiến bộ trong tổ chức thông qua việc phát huy tiềm năng cá
    nhân. Vì vậy, trường Đại học phải chú ý dạy họ cách tư duy phản biện, cách
    giao tiếp, dạy họ biết nói như thế nào, nói điều gì, lắng nghe ra sao ” Các tác
    giả Sherwyn Morreale, Rebecca B. Rubin, Elizabeth Jones [143] đã tiến hành
    một cuộc khảo sát trên 1600 người bao gồm GV, người sử dụng lao động và
    các nhà hoạch định chính sách. Kết quả cho thấy 87% trong số họ đánh giá rất
    cao tầm quan trọng của kĩ năng nói và kĩ năng nghe trong truyền thông cụ thể.
    Theo họ, KNN hiệu quả không chỉ giúp cho SV thành công trong các khóa
    học và trong công việc tương lai mà còn giúp họ luôn có được cảm xúc tích
    cực về giao tiếp. Tác giả James H Stronge trong cuốn “Những phẩm chất của
    người giáo viên hiệu quả” [89] đã cung cấp những cứ liệu thuyết phục khẳng
    định tầm quan trọng của KNN. Theo đó, điểm của giáo viên trong các kì thi
    kiểm tra năng lực ngôn ngữ là đầu mối duy nhất để đặt trong sự tương quan
    tích cực với thành tích học tập của học sinh. Trong khi năng lực trí tuệ của
    GV và thành tích học tập cao của học sinh chưa được chứng minh là có sự
    liên hệ. Nghiên cứu này chỉ ra rằng học sinh được học với những giáo viên có
    năng lực ngôn ngữ cao hơn thì thể hiện tốt hơn trong các kì thi, chuẩn hơn so
    với những học sinh được học với những thầy cô có năng lực ngôn ngữ thấp
    hơn. Theo James H Stronge: “Rõ ràng là có một sự tương quan giữa vốn từ,
    năng lực ngôn ngữ, cũng như sự thể hiện của những giáo viên hiệu quả và
    thành tích học tập của học sinh. Bởi kĩ năng giao tiếp là một phần của năng lực
    ngôn ngữ, giáo viên có năng lực ngôn ngữ tốt hơn thì có khả năng truyền thụ
    kiến thức cho học sinh hiệu quả hơn và cũng thể hiện được phong thái giảng
    dạy thú vị và dễ hiểu” [89, tr.22]. Các kết luận được rút ra từ nghiên cứu này
    một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của KNN - một trong những yếu tố
    quyết định thành công của nghề dạy học.
    Về nội dung phát triển KNN cho SV: Từ những công trình nghiên cứu
    trên đây cũng cho thấy nội dung phát triển KNN cho SV nước ngoài rất đa
    dạng, phong phú, có tính độc lập hoàn toàn chứ không mang tính tích hợp,
    lồng ghép như ở Việt Nam. Hướng tới việc phát triển KNN cho SV, các nội


    9
    dung cụ thể được xác định rất hữu ích và gần gũi. Ví dụ, M. Mojibur Rahman
    [137] đề cập tới các nguyên tắc khi thực hiện giao tiếp bằng lời mà bất cứ ai
    cũng phải tuân thủ như: nghiêm túc và hài hước đúng lúc; tự tin và thận
    trọng; tiết kiệm thời gian; sử dụng hiệu quả ngôn ngữ cơ thể; sau đó tác giả
    tập trung vào các kĩ năng cụ thể như: kĩ năng lắng nghe, kĩ năng đặt câu hỏi,
    kĩ năng thuyết phục, kĩ năng thuyết trình. Cũng có những điểm chung với M.
    Mojibur Rahman, các tác giả Sherwyn Morreale, Rebecca B. Rubin, Elizabeth
    Jones [143] nhấn mạnh tới các nội dung trọng tâm như: năng lực nói (gồm:
    xác định rõ mục đích của bài nói, chọn và giới hạn chủ đề theo mục đích và
    khán giả, hoàn thành các mục đích của bài nói); năng lực nghe (gồm: nhận
    ra các ý tưởng chính, xác định các chi tiết hỗ trợ, tổng hợp đánh giá bằng suy
    luận logic). Bên cạnh những nội dung tri thức cần thiết về năng lực nghe và
    nói, các tác giả còn đi sâu vào những kĩ năng giao tiếp cơ bản như: kĩ năng
    giao tiếp nhóm, kĩ năng giao tiếp cá nhân, kĩ năng nói trước tập thể. Có thể
    thấy, đây là những nội dung phát triển KNN vô cùng thiết thực đối với SV
    giúp họ đạt được mục tiêu giao tiếp hiệu quả. Tiếp cận vấn đề ở một góc độ
    hẹp và chuyên sâu hơn tác giả Nick Morgan trong cuốn “Oral communication
    skills” [138] đã cung cấp nội dung phát triển KNN bằng một quy trình cụ thể
    gồm ba bước: chuẩn bị (tìm hiểu: mục tiêu, người nghe, tình huống, phương
    tiện .); thực hiện (thuyết trình, trao đổi, xử lí các câu hỏi) rút kinh nghiệm
    sau khi nói (những điểm tốt, điểm chưa tốt, nguyên nhân, cách khắc phục ở
    lần sau .). Do xác định đúng tầm quan trọng của việc phát triển KNN và cách
    xây dựng mục tiêu rõ ràng, cụ thể nên các nội dung tri thức hướng tới phát
    triển kĩ năng này cho SV rất tường minh, gần gũi và thiết thực. Điều đáng chú
    ý là cùng với nội dung phát triển KNN có tính chất cơ bản cần trang bị cho
    mọi SV thì mỗi cuốn tài liệu còn có những nội dung phát triển KNN hướng
    tới SV thuộc các chuyên ngành cụ thể như: nhân viên văn phòng, quản trị
    kinh doanh, du lịch .
    Tóm lại, nội dung phát triển KNN được cung cấp trong những tài liệu này
    rất đa dạng, phong phú. Có tác giả dựa vào mục đích giao tiếp, để phân xuất
    thành: kĩ năng lắng nghe, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng thuyết phục, kĩ năng


    10
    thuyết trình. Có tác giả dựa vào quy trình nói để xác định các bước: chuẩn bị,
    thực hiện, rút kinh nghiệm. Có tác giả căn cứ vào mối quan hệ biện chứng
    giữa kĩ năng nghe và kĩ năng nói để thiết lập, đi sâu vào những yêu cầu cụ thể
    của từng kĩ năng.
    Về phương pháp phát triển KNN cho SV: Các tác giả của những công
    trình nghiên cứu nêu trên đều có sự thống nhất cao về quan điểm muốn rèn
    luyện và phát triển KNN cho SV thì con đường hữu hiệu nhất là thông qua
    thực hành, luyện tập. Phát biểu trong báo cáo “Teaching Oral Communication
    Skills: A Task-based Approach” [137] M. Mojibur Rahman, đã đề xuất:
    “Chương trình học ở Đại học cần cung cấp nhiều hơn cơ hội được nói như:
    thực hành giao tiếp nhóm, tập đàm phán về nội dung có liên quan tới chuyên
    ngành đào tạo, thử các chiến lược truyền thông nhằm phát triển sự tự tin của
    người học giúp họ có được kĩ năng nói hiệu quả, đạt được mục đích giao
    tiếp.” Cùng bàn về phương pháp phát triển KNN cho SV, nhóm tác giả
    Sherwyn Morreale, Rebecca B. Rubin, Elizabeth Jones [143] cũng cho rằng:
    “Kĩ năng nói không phải là sở hữu hiển nhiên với mọi con người. Sẽ là sai
    lầm nếu ta nghĩ rằng một người hoặc được trời cho khiếu ăn nói hoặc không
    có khiếu đó. Thực ra kĩ năng nói hiệu quả là một nghệ thuật. Giống như việc
    phát triển bất kì một năng lực nghệ thuật nào khác, nó đòi hỏi phải được
    huấn luyện và kỉ luật. Thực hành sẽ cải thiện nó. Việc không ngừng nhận biết
    những khiếm khuyết đã hoặc có thể mắc phải cũng giúp phát triển kĩ năng
    nói”. Có tiếng nói cộng hưởng, đề cao phương pháp thực hành luyện tập
    trong việc phát triển KNN cho SV, tác giả Nick Morgan khẳng định: “Phát
    triển kĩ năng nói cho người học bằng cách dạy người học biết huy động
    những hiểu biết vốn có và những kiến thức tiếp thu được vào trong một tình
    huống thực tế mà họ sẽ gặp trong công việc, trong đời sống hàng ngày. Họ
    được đặt mình vào vị trí mà sau này bản thân sẽ phải đảm nhận, được làm
    quen với nó. Và họ biết được tại sao mình phải học kĩ năng nói” [138]. Xuất
    phát từ quan điểm phát triển KNN phải thông qua thực hành luyện tập, vận
    dụng kiến thức vào thực tiễn nên các tác giả đã rất coi trọng việc thiết kế bài
    tập cho SV. HTBT này thường bám sát chuyên ngành mà SV đang theo học


    11
    và gắn với một tình huống giả định. Chẳng hạn, SV chuyên ngành Quản trị
    kinh doanh có bài tập nhóm đóng vai người bán hàng và khách hàng để giải
    quyết hiểu lầm về giá cả sản phẩm; hay yêu cầu đưa ra nhận xét về những lời
    khen mà nhân viên lễ tân của một khách sạn dành cho vị khách hàng khó tính;
    phân tích cách xử lí hiệu quả nhất để giải quyết một câu hỏi trong buổi thảo
    luận khi bạn không có câu trả lời SV ngành Kế toán có bài tập thuyết phục
    đồng nghiệp giúp đỡ mình về chuyên môn, nghiệp vụ trong lúc xây dựng báo
    cáo tài chính; SV ngành Marketting được yêu cầu thực hành: giải thích, thuyết
    phục và làm hài lòng khách hàng trong những bối cảnh cụ thể . Với những
    bài tập này, người học vừa có cơ hội vận dụng kiến thức đã được trang bị vừa
    từng bước tiếp cận với tình huống giả định thực tế mà họ có thể sẽ gặp trong
    công việc tương lai.
    Như vậy, điểm mấu chốt nhất của phương pháp dạy học phát triển
    KNN mà những tài liệu này nhấn mạnh chính là thực hành, luyện tập: “Cách
    đầu tiên, cách cuối cùng và cách không bao giờ thất bại để phát triển KNN là
    phải nói” [26; tr26). Những nội dung thực hành, luyện tập thường là các tình
    huống giả định, giải quyết tình huống ấy bằng việc sử dụng ngôn ngữ nói là
    nhiệm vụ đặt ra cho sinh viên.
    Qua quá trình tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình ngoài
    nước có liên quan đến luận án đã cho thấy sự thống nhất cao độ gặp nhau ở
    những quan điểm cốt lõi của các tác giả về tầm quan trọng, nội dung, phương
    pháp và đặc biệt là cách xây dựng bài tập nhằm phát triển KNN cho SV. Đây
    là những gợi ý ban đầu, hết sức cần thiết và bổ ích, giúp NCS có thể so sánh,
    tham khảo trong quá trình triển khai đề tài luận án.
    3.2. Tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan ở trong nước
    Vấn đề rèn luyện, phát triển KNN cho học sinh - SV trong dạy học Ngữ
    Văn nói chung và tiếng Việt nói riêng ở nước ta còn ít được quan tâm, cả
    trong nghiên cứu lí luận cũng như thực tiễn triển khai.
    Ở cấp Tiểu học có thể kể tới một số tài liệu như: “Dạy các kĩ năng
    nghe-nói cho học sinh Tiểu học” (Nguyễn Trí) [120]; “Một số biện pháp nâng
    cao hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh tiểu học ở môn tiếng Việt” (Trần


    12
    Thị Hiền Lương) [77]; “Dạy học nghi thức lời nói cho học sinh Tiểu học môn
    Tiếng Việt” (Đặng Thị Lệ Tâm) [101]; “Việc rèn luyện kĩ năng nghe và nói
    cho học sinh Tiểu học ở California - Mĩ” (Phạm Thị Thu Hiền) [48]
    Mặc dù chưa có được những nghiên cứu quy mô như ở cấp Tiểu học,
    nhưng cấp THCS cũng đã có một số bài viết bàn về vấn đề này, cụ thể là:
    “Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh trung học cơ sở” (Nguyễn Thúy Hồng)
    [58]; “Về việc bồi dường kĩ năng đọc, nói, nghe, viết cho học sinh trong dạy
    học Ngữ Văn” (Nguyễn Viết Chữ) [23]; “Môn Văn ở nhà trường dạy nói, dạy
    viết” (Lê Đức Mậu) [78]; “Phát triển hài hoà bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết
    cho học sinh THPT trong học Ngữ văn” (Lê Thị Thu Hằng) [47]
    Theo các tác giả thì đa số học sinh Việt Nam còn hạn chế về KNN với
    những biểu hiện cụ thể như: chưa thực sự tự tin trong khi nói; cách thể hiện
    còn đơn điệu, khô cứng; lập luận chưa đủ căn cứ thuyết phục người nghe
    Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do bản thân học sinh chưa có ý thức
    rèn luyện, phát triển KNN; gia đình, nhà trường cũng chưa chú trọng tới vấn
    đề này; bên cạnh đó là sự chi phối của đặc điểm tâm lí, tính cách, đời sống
    văn hóa của người Việt Nam Từ việc phân tích nguyên nhân của thực
    trạng, hay tổng kết kinh nghiệm của nước ngoài khi dạy kĩ năng nghe nói cho
    học sinh, các tác giả đã đề xuất những biện pháp nhằm rèn luyện KNN trong
    dạy học Văn, Tiếng Việt. Mặc dù luận án có sự khác biệt trong phạm vi
    nghiên cứu với những tài liệu nêu trên nhưng NCS đã tìm thấy ở đó những
    gợi ý khá quan trọng giúp ích cho quá trình tiếp cận và triển khai đề tài.
    Vấn đề rèn luyện KNN cho học sinh không chỉ được đề cập tới trong
    những công trình khoa học của các tác giả nói trên mà còn thể hiện ở nội dung
    chương trình dạy học Ngữ Văn, Tiếng Việt. Do sự chi phối của phạm vi
    nghiên cứu, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát nội dung chương trình Ngữ Văn
    hiện hành cấp THPT (cấp học liền trước của SV) và một số chương trình của
    các học phần Tiếng Việt được dạy ở các trường/khoa sư phạm.
    Trong chương trình Ngữ Văn cấp THPT, chúng tôi nhận thấy nội
    dung rèn luyện kĩ năng nói được thể hiện tích hợp qua các phân môn, cụ
    thể như sau:


    13
    Phân môn Tiếng Việt: Nếu chương trình trước năm 2000 ưu tiên hơn
    cho hệ thống tri thức cơ bản về ngôn ngữ học cấu trúc, thì nội dung dạy học
    trong chương trình hiện hành đã chú ý nhiều hơn tới những tri thức về ngôn
    ngữ học chức năng (ngữ dụng học). Những thay đổi này thể hiện sự đổi mới
    theo xu hướng hòa nhập với thế giới, tăng tính thiết thực hữu ích của môn
    học đối với cuộc sống con người thời đương đại. Cụ thể là học sinh được
    học về Ngôn ngữ dạng nói và dạng viết; Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt;
    Hoạt động giao tiếp - Đặc điểm cơ bản; Những yêu cầu về sử dụng tiếng
    Việt (lớp 10) Hoạt động giao tiếp - Ngữ cảnh; Từ ngôn ngữ chung đến lời
    nói cá nhân (lớp 11); Hoạt động giao tiếp - Nhân vật giao tiếp; Giữ gìn sự
    trong sáng của tiếng Việt (lớp 12). Tuy nhiên, những bài học trên chủ yếu
    dừng lại ở việc cung cấp kiến thức nền tảng cho học sinh về các kĩ năng sử
    dụng ngôn ngữ (trong đó có kĩ năng nói) mà chưa tập trung dạy kĩ năng nói
    cho người học. Trước những hiện tượng như một bộ phận học sinh (nhất là ở
    các thành phố lớn) tỏ ra thích học tiếng Anh hơn tiếng Việt, thông thạo tiếng
    Anh hơn tiếng Việt; học sinh nói viết tiếng Việt lệch chuẩn ngày càng phổ
    biến, thì việc rèn luyện, phát triển KNN tiếng Việt cho học sinh là một vấn
    đề cần được quan tâm đúng mức.
    Phân môn Làm văn: Chương trình hiện hành đang chú trọng tới việc
    rèn luyện kĩ năng viết (tạo lập một số loại văn bản: thuyết minh, nghị luận và
    một số kiểu văn bản khác như: phỏng vấn, bản tin, tóm tắt tiểu sử) mà chưa
    chú trọng tới việc rèn luyện kĩ năng nói. Biểu hiện rõ nhất là thời lượng phân
    phối cho hai nội dung này có một sự chênh lệch rất lớn. Sau khi thống kê số
    tiết dành cho những bài học học độc lập về KNN trong bộ sách Ngữ văn theo
    chương trình chuẩn, chúng tôi thu được kết quả cụ thể như sau: Ngữ văn 10, 1
    bài -1 tiết (Trình bày một vấn đề, Tập 1); Ngữ văn 11, 1 bài - 2 tiết (Phỏng
    vấn và trả lời phỏng vấn, Tập 1); Ngữ văn 12, 2 bài - mỗi bài 1 tiết (Phát biểu
    theo chủ đề , Tập 1; Phát biểu tự do, Tập 2). Tổng cộng cả ba khối lớp cấp
    Trung học phổ thông là 5 tiết/94 tiết. Một số bài học này đã thể hiện cách tiếp
    cận độc lập về nội dung rèn luyện KNN. Mặc dù số lượng chưa nhiều, nội
    dung thực hành luyện nói chưa được phong phú nhưng đây thực sự là những
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...