Tài liệu Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc và đấu tranh chống mĩ – ngụy ở miền nam (1954-1965)

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG MĨ – NGỤY Ở MIỀN NAM (1954-1965)

    Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trong 10 năm đầu sau ngày kí Hiệp định Giơnevơ:
    - Tình hình, đặc điểm của đất nước sau Hiệp định Giơnevơ và nhiệm vụ cách mạng trong thời kì mới.
    - Miền Bắc tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.
    - Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ - Diệm, thực hiện đồng khởi, tiến tới đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mĩ và tay sai.

    I- Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ và nhiệm vụ cách mạng trong thời kì mới

    Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ , nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) và Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954). Cách mạng Việt Nam từ đó bước sang giai đoạn mới với nhiệm vụ to lớn là củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất đất nước, hoàn thành độc lập và dân chủ.

    Để thực hiện hoà bình, bước dầu tiên là quân đội hai bên phải ngừng bắn; đồng thời tách quân đội hai bên ra hai vùng khác nhau, tức là điều chỉnh khu vực. Điều chỉnh khu vực chỉ là một giải pháp tạm thời, không phải là phân chia biên giới.

    Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực sẽ được thi hành trong thời gian 300 ngày, kể từ ngày kí Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954 - 19-5-1955).

    Về việc thực hiện ngừng bắn: Theo Điều 10 trong bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, việc thực hiện ngừng bắn phải đồng thời thực hiện trên toàn cõi Việt Nam, tại tất cả các chiến trường và cho tất cả mọi lực lượng của hai bên. Nhưng do đặc điểm của chiến trường Việt Nam, tính theo thời gian thực sự cần thiết để chuyển lệnh ngừng bắn tới những cấp thấp nhất của lực lượng chiến đấu, hai bên đồng ý sẽ thực hiện ngừng bắn hoàn toàn và đồng thời, theo từng khu vực lãnh thổ và theo thời gian quy định cho từng khu vực:

    - Ở Bắc Bộ: Đúng 8 giờ (giờ địa phương) ngày 27-7-1954.
    - Ở Trung Bộ: Đúng 8 giờ (giờ địa phương) ngày 1-8-1954.
    - Ở Nam Bộ: Đúng 8 giờ (giờ địa phương) ngày 11-8-1954.

    Do thái độ nghiêm chỉnh và đấu tranh kiên quyết của ta, phía Pháp cũng phải thi hành đúng lệnh ngừng bắn trên các chiến trường, trừ một số nơi các phần tử thân Mĩ ở miền Nam có hành động khiêu khích, phá hoại.

    Về việc tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực: Trong thời kì chiến tranh, các khu vực đóng quân của lực lượng vũ trang hai bên không có giới tuyến rõ ràng; các vùng kiểm soát của ta và địch xen kẽ nhau, tạo nên hình thái cài răng lược. Vì vậy, để thực hiện ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực, vấn đề tách rời các đơn vị chiến đấu của hai bên để tránh xung đột dẫn đến tình trạng chiến tranh trở lại, là một việc cần thiết.

    Sau khi tách rời các đơn vị chiến đấu, việc tập kết lực lượng của hai bên ở hai miền và chuyển giao khu vực được tiến hành. Trước khi rút quân và chuyển giao khu vực cho đối phương, chúng ta đã giải thích cho đồng bào địa phương giải quyết khó khăn trong đời sống cho đồng bào.

    Ngược lại, về phía Pháp, trước khi rút quân khỏi miền Bắc, chúng cấu kết với đế quốc Mĩ và tay sai, ra sức hoạt động phá hoại. Chúng cài gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di tích lịch sử và văn hoá, vơ vét tài sản, vật tư, tháo dỡ máy móc, thiết bị, hòng làm tê liệt hoặc gây khó khăn cho nhân dân ta trong công tác tiếp quản. Chúng còn dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào Công giáo di cư vào Nam; tổ chức nhiều nhóm phỉ gây rối ở một số nơi thuộc vùng Tây Bắc, Đông Bắc.

    Nhân dân ta, nhất là ở những vùng sắp giải phóng, đã tiến hành các cuộc đấu tranh rất quyết liệt chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của địch. Trên cơ sở đó, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng diễn ra tốt đẹp. Ngày 10-10-1954, quân ta tiếp quản thủ đô Hà Nội. Ngày 1- 1-1955, nhân dân ta tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Ba Đình để chào đón Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về thủ đô sau 8 năm xa cách. Ngày 13-5-1955, đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Hải Phòng. Nửa nước Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, đánh dấu thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến và đặt cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và hoà bình.

    Sau thời gian 300 ngày đấu tranh thực hiện các điều khoản ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Như vậy, Sau hơn 80 năm nô lệ, ngày nay cả miền Bắc là của nhân dân ta, dưới chế độ Dân chủ Cộng hoà do nhân dân ta làm chủ. Thắng lợi to lớn ấy là do từ Nam đến Bắc, đồng bào ta đoàn kết, bộ đội ta anh dũng, Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo đúng đắn. Ta lại có nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới ủng hộ .

    Miền Bắc hoàn toàn giải phóng cũng có nghĩa là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành. MiềnNam còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai. Trước sự thay đổi của tình hình đất nước, Đảng ta kịp thời xác định nhiệm vụ cách mạng cho phù hợp. Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ chung của Đảng là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định để củng cố hoà bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủn trong toàn quốc.

    Như vậy, tuy chưa nêu cụ thể, nhưng Nghị quyết Bộ Chính trị đã xác định mỗi miền có một nhiệm vụ khác nhau. Miền Bắc phải được củng cố vững chắc để làm chỗ dựa cho cách mạng miền Nam. Muốn vậy, không thể để miền Bắc trong tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu và càng không thể đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

    Yêu cầu của cách mạng miền Bắc cũng như của cách mạng cả nước và nguyện vọng của toàn dân đòi hỏi miền Bắc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới có thể đi tới một xã hội công bằng và văn minh, không có người bóc lột người; đồng thời cũng xoá bỏ nguồn gốc sinh ra phương thức bóc lột.

    Yêu cầu của cách mạng nước ta cũng như nguyện vọng toàn dân hoàn toàn phù hợp với đặc điểm và nội dung của thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

    Mặt khác, ở nước ta, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp công nhân và nông dân đóng vai trò quyết định; đội tiên phong của giai cấp công nhân nắm độc quyền lãnh đạo cách mạng. Trong điều kiện đó, thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không những là thắng lợi của nhân dân lao động đối với chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, mà còn là thắng lợi về chính trị của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản trong nước. Chính vì thế, sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng có nghĩa là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa .

    Xuất phát tử những cơ sở trên, Đảng ta quyết định đưa miền Bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quyết định này cũng chính là sự vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta.

    Ở miền Nam, theo quy định của Hiệp định Giưnevơ, lực lượng Liên hiệp Pháp tạm thời nắm quyền kiểm soát trong hai năm. Nhưng trong quá trình đó, đế quốc Mĩ đã gạt Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới.

    Sự nghiệp giải phóng dân tộc do vậy chưa hoàn thành. Trong điều kiện ấy, nhân dân ta ở miền Nam có nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai, thực hiện giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà.

    Như vậy, từ cuối năm 1954, sau ngày hoà bình lập lại, trong một giai đoạn lịch sử, dưới sự lãnh đạo của một Đảng, nhân dân ta đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau: Chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây chính là một đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1975.

    Mỗi cuộc cách mạng nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể, cấp bách của mỗi miền, nhưng có mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn phải làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam và cho cả sự nghiệp xây dựng đất nước sau khi thống nhất. Cách mạng dân tộc dân
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...