Tài liệu Vùng văn hoá trung bộ

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    VÙNG VĂN HOÁ TRUNG BỘ


    I. ĐẶC ĐIỂM MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN XÃ HỘI


    Nếu như từ góc độ hành chính, lâu nay, người ta hay xếp Thanh - Nghệ -


    Tĩnh cũng thuộc Trung Bộ, và coi là Bắc Trung Bộ. Có nhà địa lí học nói rằng,


    trên một ý nghĩa nào đó, châu thổ sông Mã, sông Cả chỉ là sự “nối dài của châu


    thổ Bắc Bộ”. Chúng tôi không hoàn toàn nghĩ như vậy, song về mặt văn hoá, từ


    trước - sau công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã thuộc không gian văn hoá


    Đông Sơn, trước đó nữa, có những di tích có tính chất của văn hoá Phùng


    Nguyên, nếu phải nhìn xa hơn thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ


    hang động xứ Thanh là thuộc về khôgn gian văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn.


    Cả giới địa học và dân tộc học, văn hoá học đều coi miền núi Thanh -


    Nghệ là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc - Bắc Bộ. Cố nhiên, Thanh


    - Nghệ - Tĩnh đã là không gian văn hoá Việt Cổ (Lạc Việt cũng với cách nghĩ


    như vậy, nên chúng tôi cho rằng vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh thuộc vùng văn hoá


    Bắc Bộ). Do vậy, vùng văn hoá Trung Bộ là vùng đất thuộc lãnh thổ các tỉnh


    Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế. Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình


    Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận và thành phố Đà Nẵng


    hiện nay. Nói đến miền Trung như một tổng thể hệ thống nằm trong tổng thể hệ


    thống Việt Nam, người ta thường chú ý đến các đặc điểm sau đây:


    Thứ nhất: địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông Tây, nếu quay


    mặt về đồng thì trước mặt mỗi người dân Trung Bộ sẽ là Biển Đông, sau lưng là


    dãy Trường Sơn.


    Thứ hai: đại hình miền Trung chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, bởi các


    đèo là những dãy núi đồi tách từ Trường Sơn đâm ngang ra biển. Nếu tính từ


    Tam Điệp đèo Ba Dội thuộc xứ Thanh thì cứ một đèo, một đèo lại một đèo, lặp


    đi lặp lại qua đèo Hoàng Mai, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông v.v


    Đây là chỉ kể các đèo con, chứ thật ra còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo


    Lý Hoà, núi Lễ Dễ (hay núi Ma Cô) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng giữa Quảng Ngãi và Bình Định. Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy


    ngang theo chiều Đông Tây ra biển, sông ngắn, nước biếc xanh, ít phù sa, châu


    thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu tạo thành các vịnh, cảng. Vận động tạo sơn còn


    “ném” ra biển xã các đảo và quần đảo. Chưa kể các quần đảo san hô xa khơi


    như Hoàng Sa, Trường Sa, chỉ nối các hòn đoả gần bờ như Hòn Gió (Quảng


    Bình); Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi),


    Phú Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hoà) v.v . tạo ra những “bình phong’


    ngăn chặn bớt sóng gió Biển Đông.


    Suốt dải đất miền Trung Bộ, đường bờ biển Việt Nam “ưỡn” cong “lồi”


    ra phía sau Biển Đông, đành rằng hướng gió bão, sóng thần, nhưng luồng cá


    biển cũng chạy gần bờ hơn, so với miền Bắc. Sát bờ biển, từ Quảng Bình trở vô


    Nam, Ngãi, Bình, Phú có các dải cồn cát chạy dọc dài bắc nam ghi dấu những


    đường biển cũ, ở giữa các dải cồn cát là một vùng trũng nối phân bố xóm làng


    và ruộng lúa ngày nay. Chân cồn là những bàu nước ngọt. Thứ ba là khí hậu,


    miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai dầu Bắc Nam đất nước, ở miền


    Trung lại gặp gió Tây rất khô nóng, thổi từ Lào qua (xưa người vẫn gọi là gió


    Lào tạo ra sự khô rang cho miền Trung, như Chế Lan Viên từng thốt lên chưa


    xót:


    Ôi gió Lào ơi, Người đừng thổi nữa


    Những ruộng đói mùa, những đồng đói cỏ


    Những đồi sim không đủ quả nuôi người.


    Mặt khác, với Đại Việt, từ năm 1059, vùng Buảng Bình thuộc về nhà Lý,


    năm 1336, Châu Ô, Châu Lý (tức vùng Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay)


    thuộc về nhà Trần, năm 1470 vùng đất từ núi Thạch Bi (nay thuộc Phú Yên) trở


    ra thuộc nhà Lê. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hoá. Từ đó,


    Nguyễn Hoàng bắt đầu “kinh doanh dải đất” (chữ dùng của GS. Đinh Gia


    Khánh) miền Trung. Nói khác đi là sự nghiệp khai phá miền Trung được đẩy


    lên một bước mới. Rồi hai trăm năm chiến tranh giữa Đang Trong và Đàng
    Ngoài, miền Trung trở thành lãnh địa được các chúa Nguyễn tạo ra vô ý thức


    đối kháng với Đàng Ngoài. Kinh đô của vương triều này là vùng Phú Xuân.


    Phong trào nông dân khởi nghĩa thế kỉ XVIII làm lung lay chế độ phong kiến.


    Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua ở Phú Xuân, đất nước được thống nhất


    trên cơ bản. Năm 1802, dựa vào thế lực của phương Tây, Nguyễn Ánh chiến


    thắng vương triều Tây Sơn, cai quản một đất nước thống nhất. Từ 1802 đến


    1945, nhà Nguyễn đặt kinh đô ở Huế. Như vây là miền Trung, đã có một thời ít


    nhất với ba vương triều: các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, nhà Ngiuyễn, có xứ


    Huế, là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của cả nước. Trải qua tiến trình


    lịch sử, vùng Trung Bộ là trạm trung chuyển, đất dừng chân để người việt tiến


    về phía Nam mở cõi, lại là vùng biên viễn của Đại Việt, nơi diễn ra sự giao lưu


    trực tiếp giữa người Việt và người Chăm. Chính những đặc điểm tự nhiên, xã


    hội, lịch sử này của Trung Bộ sẽ tạo cho vùng văn hoá Trung Bộ những đặc


    điểm riêng, so với các vùng văn hoá Việt Nam.


    II. ĐẶC ĐIỂM CỦA VÙNG VĂN HOÁ TRUNG BỘ


    Do vị thế địa chính, địa văn hoá đặc biệt của xứ Huế, nên xứ Huế đã như


    một tiểu vùng có gương mặt văn hoá khá độc đáo. Vì thế, chúng tôi trình bày


    những đặc điểm chung của vùng Trung Bộ, và nhìn nhận riêng vùng văn hoá


    Huế.


    1. Đặc điểm chung của vùng văn hoá Trung Bộ


    Khác với Nam Bộ được khai phá muộn hơn, khác với Bắc Bộ là địa bàn


    tụ cư và khai thác lâu đời của người Việt, vùng Trung Bộ một thời kì dài thuộc


    các tiểu quốc của vương quốc Chăm-pa.


    Trước khi người việt vào nơi này, Nền văn hoá chăm pa một thời rạng rỡ,


    như một ánh hào quang hắt lên mặt nước trong buổi chiều tà. Vì vậy, đặc điểm


    thứ nhất của vùng văn hoá Trung Bộ phải là một vùng đất chứa nhiều dấu tích


    văn hoá chăm pa. Dọc miền Trung nhiều di sản văn hoá hữu thể còn tồn tại trên


    mặt đất. Đó là các tháp Chăm phơi sương gió cùng năm tháng. Lịch sử đi qua
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...