Đồ Án Vụ kiện bán phá giá hàng thuỷ sản Việt Nam tại Mĩ

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Vụ kiện bán phá giá hàng thuỷ sản VN tại Mĩ


    LỜI MỞ ĐẦU

    Thương mại quốc tế ngày càng phát triển đặc biệt là trong thập kỷ vừa qua, nó đóng vai trò lớn đối với các nền kinh tế trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng toàn cầu. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, thương mại quốc tế cũng đem lại không ít khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường quốc tế, mà các doanh nghiệp Việt Nam không là ngoại lệ.

    Thông qua vụ kiện bán phá giá tôm của các doanh nghiệp Việt Nam trên đất Mỹ giúp chúng ta có cách nhìn nhận xác thực hơn về tình hình thương mại quốc tế hiện nay. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đồng thời nhìn nhận nghiêm túc về chính sách thương mại của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Vì lý do đó mà tôi chọn đề tài: "Vụ kiện phá giá Việt Nam tại Mỹ"

    PHẦN I
    KHÁI QUÁT VỀ XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀO MỸ


    I. Tình hình sản xuất kinh doanh thủy sản tại Hoa Kỳ
    Hoa Kỳ là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 2 trên thế giới sau Nhật Bản với trị giá nhập khẩu trên 8 tỉ USD/năm. Năm 2000 Hoa Kỳ nhập khẩu thuỷ sản từ 130 quốc gia trên thế giới với khối lượng 1,6 triệu tấn, giá trị đạt khoảng 10 tỉ USD. Người tiêu dùng Hoa Kỳ sử dụng xấp xỉ 8% tổng sản lượng thuỷ sản của thế giới trong đó hơn một nửa là nhập khẩu. Hoa Kỳ có khoảng 1300 nhà máy chế biến thuỷ sản với trang thiết bị hiện đại đóng góp khoảng 25 tỉ USD vào tổng thu nhập quốc dân. Có thể nói Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng đối với thủy sản Việt Nam.

    II. Những mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ
    Cơ cấu mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ rất đa dạng bao gồm những mặt hàng chủ yếu sau:
    1) Tôm:
    Mặt hàng này được tiêu thụ với khối lượng lớn do dân chúng Hoa Kỳ ưa thích nhất. Từ năm 1998 đến năm 2000, nước này nhập khẩu khoảng 3,1 tỷ USD mỗi năm, 5% khối lượng được nhập từ châu Á, lượng tôm nhập qua các năm là:

    Năm 1997 1998 1999
    Đơn vị tấn 236.000 288.928 300.000
    (Nguồn: uỷ ban thương mại quốc tế Mỹ)
    Nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ tăng mạnh vào 6 tháng cuối năm.

    2. Cá nước ngọt, phi lê tươi và đông lạnh
    Hoa Kỳ có nhu cầu lớn về cá da trơn nước ngọt trắng như cá Ba sa (Pangenus hypoththalmus), cá tra (Pargasius bocunti) tương tự với loài cá nheo Hoa Kỳ gọi là Catfooh. Cá ba sa và cá tra xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu từ các quốc gia: Guyana, Braxin, Thái Lan, Canada và Việt Nam. Trong đó nhập khẩu từ Việt Nam chiếm 80%.

    3. Tôm hùm tươi sống và ướp lạnh
    Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ tôm hùm lớn nhất thế giới. Người dân hiện ưa chuộng tôm hùm sống hoặc ướp đá, nhu cầu về mặt hàng này luôn ở mức cao.

    4. Cá ngừ nguyên con và ướp lạnh
    Từ năm 1990 Hoa Kỳ phải nhập khẩu cá ngừ. Năm 1995 Hoa Kỳ nhập khẩu 130.000 tấn cá ngừ nguyên liệu trị giá 460 triệu USD để cứu hàng loạt nhà máy đóng hộp cá ngừ khỏi nguy cơ phá sản.

    5. Cá ngừ đóng hộp
    Mặc dù là nước có công nghệ đóng hộp cá ngừ mạnh nhất thế giới, nhưng năm 1996 Hoa Kỳ phải nhập khẩu 110.000 tấn cá ngừ đóng hộp trị giá hơn 230 triệu USD.

    6. Cá hồi nguyên con tươi và ướp lạnh
    Hoa Kỳ đứng thứ 2 thế giới về khai thác cá hồi với sản lượng 550 tấn năm 1995, nhưng người tiêu dùng trong nước rất ưa chuộng cá hồi Đại Tây Dương nuôi nhân tạo ở Nauy, Canada và Chi Lê nên mỗi năm họ phải nhập khẩu 60.000 tấn cá hồi trị giá 280 triệu USD.

    7. Điệp tươi và ướp lạnh
    Hoa Kỳ là nước tiêu thụ điệp tươi lớn thứ 3 thế giới sau Trung Quốc và Nhật Bản. năm 1995 sản lượng nhập khẩu 26.000 tấn trị giá 216 triệu USD.

    Nhìn chung, do thói quen nên cơ cấu mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ rất đa dạng, phong phú bao gồm nhiều loại thuỷ sản nước mặn, nước ngọt, nguyên liệu hoặc đã qua chế biến. Do sức mua lớn nên khối lượng nhập khẩu thuỷ sản vào thị trường này rất lớn và mức tăng trưởng vẫn duy trì ở mức cao. Các doanh nghiệp đánh bắt sản xuất thuỷ sản Việt Nam có thể tăng cường đầu tư để nâng cao sản lượng phục vụ cho xuất khẩu.

    III. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
    Năm 1994, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ mới đạt 5,8 triệu USD. Sau 5 năm 1999 con số này đã tăng gần 20 lần với doanh số 108 triệu USD chiếm 1,3% thị phần nhập khẩu thuỷ sản của Hoa Kỳ và chiếm 10% trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Năm 2000 có 120 doanh nghiệp có hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ với doanh số 300 triệu USD. Hoa Kỳ trở thành thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn thứ 2 của Việt Nam sau Nhật Bản. Mức tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ rất cao vào năm 2000, tăng 2,3 lần so với 1999. Năm 2001 mặc dầu nền kinh tế Hoa Kỳ rất khó khăn, đặc biệt sau sự kiện 11/9, song xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ vẫn có sự tăng trưởng lớn với khối lượng 71 nghìn tấn sản phẩm, đạt doanh số 489 triệu USD, tăng so với năm 2000 tương ứng là 86,6% và 62,4% chiếm 27,52% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản và trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam trong năm này.

    Những mặt hàng thuỷ sản chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ gồm:
    1. Nhóm hàng tôm
    Tôm hiện là nhóm mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ (chiếm 2/3 trị giá xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường này). Năm 2000, Việt Nam xuất khẩu tôm sang thị trường Hoa Kỳ tăng hơn hai lần so với năm 1999, đạt giá trị hơn 200 triệu USD. Năm 2001 Việt Nam đứng thứ 8 trong tổng số 50 nước cung cấp tôm cho thị trường này, và thường xuất khẩu dưới dạng tôm vỏ (khoảng 8 triệu pound) và tôm thịt (trên 10 triệu pound), riêng mặt tôm luộc Việt Nam đứng thứ 3 trong các nước cung cấp tôm cho Hoa Kỳ, đạt 1.360 tấn năm 2000.
     
Đang tải...