Tài liệu Việt Nam trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918)

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Việt Nam trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918)



    1. Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam

    Ngày 1-8-1914, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Đó là cuộc chiến tranh đế quốc nhằm chia lại thị trường.

    Ngay từ khi chiến tranh bùng nổ, Đông Dương đã trở thành đối tượng để vơ vét sức người, sức của của thực dân Pháp. Ngoài thuế má” và các thứ thuế khác, nhân dân Việt Nam còn phải mua phiếu quốc trái và đóng tiền quyên góp các loại với một số lượng khổng lồ mỗi năm tới 450.000.000 Phơrăng, nhiều nhất so với các thuộc dịa khác của Pháp.

    Những chiến dịch săn người của chính quyền thuộc địa đã bắt hàng trăm ngàn thanh niên Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam, sang chết thay cho lính Pháp trên các chiến trường Châu Âu.

    Nếu đem so sánh với các thuộc địa khác của Pháp, riêng số lính thợ Đông Dương phải cung cấp đã chiếm 1/4 tổng số lính thợ trong tất cả các thuộc địa của Pháp là 183.928 người, đứng đầu các thuộc địa.

    Để phục vụ cuộc chiến ở Châu Âu, trong bốn năm chiến tranh, thực dân Pháp đã khai thác ở Việt Nam hàng vạn tấn quặng kim loại quý hiếm như kẽm, chì, thiếc, kền, nhôm, ăngtimoan, 336.000 tấn nông lâm sản các loại.

    Công nghiệp thuộc địa phải gánh đỡ cho công nghiệp chính quốc vốn bị đình đốn do chiến tranh. Các ngành chế biến gỗ, rượu cồn, hóa chất . cần cho việc chế tạo vũ khí, quân nhu . đều gia tăng.

    Nông nghiệp từ chỗ chuyên canh cây lúa đã chuyển một phần sang trồng những cây công nghiệp phục vụ chiến tranh như thầu dầu, đậu, lạc. Cây cao su được đặc biệt chú ý khai thác, sản lượng từ 200 tấn năm 1914 tăng lên 931 tấn năm 1917. Năm 1916, chính quyền Đông Dương ra lệnh tăng diện tích trồng thầu dầu để mỗi năm có thể xuất cảng sang Pháp 3.000 tấn hạt.

    Chính sách bắt dân phá lúa trồng thầu dầu, trồng bông, nạn bắt lính, bắt mua công trái, bắt uống rượu do nhà nước thực dân nấu, nạn quyên góp cho mẫu quốc . đã khiến cho nông nghiệp Việt Nam khốn đốn, tiêu điều. Đời sống của nông dân vô cùng bi đát. Trong suốt bốn năm chiến tranh người nông dân bị bần cùng một cách ghê gớm.

    Ảnh hưởng sâu sắc nhất của chiến tranh đối với nền kinh tế Việt Nam rõ nhất là trong thương nghiệp. Do chiến tranh nên việc độc chiếm thị trường của Pháp ở Đông Dương có phần bị hạn chế. Hàng hoá từ Pháp sang Việt Nam giảm sút nghiêm trọng, từ 58 triệu Phơrăng xuống còn 30 triệu Phơrăng, trong khi đó hàng hoá xuất từ Việt Nam sang các nước khác trong khu vực lại có phần tăng lên. Nội thương và giao thông vận tải có điều kiện phát triển khiến cho tư sản Việt Nam hoạt động trong các ngành ngày càng có cơ hội để lớn lên, nằm ngoài ý muốn của thực dân Pháp.

    Do đó, cơ cấu xã hội Việt Nam trong những năm chiến tranh đã có nhiều thay đổi.

    + Lực lượng sản xuất ở nông thôn bị giảm sút (do chế độ bắt lính, bắt phu tàn bạo).

    + Công nhân gia tăng về số lượng (riêng ngành mỏ từ 12.000 năm 1913 tăng lên 17.000 năm 1916). Công nhân làm việc trong các xí nghiệp tư bản Việt Nam cũng tăng lên. Công ty Bạch Thái Bưởi có lúc sử dụng tới 1.000 công nhân.

    + Tầng lớp tiểu tư sản thành thị ngày càng đông đúc cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều trung tâm hành chính, công thương nghiệp và dịch vụ.

    + Tranh thủ thời gian Pháp nới lỏng độc quyền, tư sản Việt Nam cố gắng len lỏi vươn lên. Một số tư sản ra đời từ trước như Nguyễn Hữu Thu, Phạm Văn Phi . đẩy mạnh hoạt động. Một số tiểu chủ, tiểu thương vươn lên hàng tư sản như Lê Quang Long ở La Khê (Hà Đông), Bùi Tường ở Hoà (Hà Đông), Lê Văn Nghị ở Nam Trực (Nam Định). Họ hoạt động chủ yếu trong công thương nghiệp, giữ được vai trò đáng kể trong một số ngành kinh doanh.

    Tuy có sự lớn lên ít nhiều về kinh tế, song nhìn chung, trong thời gian chiến tranh, tư sản dân tộc Việt Nam lại yếu hơn so với những năm đầu thế kỷ XX về ý thức dân tộc .

    Nắm được những nhược điểm của giai cấp tư sản Việt Nam, thực dân Pháp đã kết hợp nhiều thủ đoạn vừa đe doạ, vừa dụ dỗ mua chuộc tầng lớp thượng lưu trí thức bản địa. Bằng việc đề ra một số cải cách lừa bịp, đề cao uy thế của bọn bù nhìn Nam triều, bằng cuộc vận động cải lương hương chính, bằng các biện pháp phát triển văn hoá giáo dục nô dịch, mị dân . và bằng cả các biện pháp thẳng tay đàn áp các phong trào yêu nước ., thực dân Pháp đã cố gắng khống chế về tinh thần, kết hợp với trấn áp bằng vũ lực các cuộc nổi dậy của nhân dân Việt Nam.

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...