Tài liệu Vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX

    Thử nhìn lại vị trí của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX

    Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng lòa,
    Đêm sao đêm mãi thế ru mà?

    (Tú Xương, “Đêm dài”, đầu thế kỷ XX)


    Khoảng một trăm năm trước, khi tại các quầy rượu, quán cà-phê ở những thành phố tiêu biểu cho văn hóa Tây phương vào cuối thế kỷ XIX như Paris, Vienne, Berlin, khách văn nhân nghệ sĩ gặp nhau đàm luận về những tư trào trong văn học nghệ thuật Tây phương lúc bấy giờ như “nghệ thuật vị nghệ thuật” (l’art pour l’art), chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) hay trường phái tự chiêm ngưỡng (narcissism), thì ở xứ Đông Dương xa xôi bên kia nửa vòng trái đất, nước ta hãy còn im lìm trong giấc nồng của đêm dài mất nước và ngay cả cái tên Việt Nam vẫn chưa được mấy ai nghe biết đến. Ngọn lửa Cần Vương kháng chiến cuối cùng ở Vũ Quang do Phan Đình Phùng lãnh đạo cũng đã bị dẹp tắt (1896). Dưới chính sách của toàn quyền Paul Doumer là triệt để khai thác nhân lực cùng tài nguyên của xứ thuộc địa này nhằm phục vụ tối đa cho quyền lợi của mẫu quốc, từ 1902 - năm ở Hà Nội người Pháp rầm rộ làm lễ khánh thành cầu Doumer (tức cầu Long Biên sau này) - Đông Dương bắt đầu mang lại những lợi lộc kinh tế và tài chánh cho nước Pháp trong khi tuyệt đại đa số người Việt phải chịu cảnh tôi đò ngay chính trên quê hương của họ. Về sau, khi viết hồi ký Doumer đã kiêu hãnh ghi lại như sau: “Khi Pháp mới đến Đông Dương, nước An Nam đã chín muồi trong tình cảnh nô lệ”!

    Trong hoàn cảnh đất nước bi đát như thế, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai sĩ phu, hai bậc đại hào kiệt đi hàng đầu trong vận động giành lại độc lập dân tộc vào giai đoạn giao thời 25 năm đầu thế kỷ XX. Tuy cùng chung hoài bão cứu nước, lập trường của hai nhà chí sĩ họ Phan trên một số vấn đề căn bản của đất nước lại rất khác nhau, thậm chí có khi tương phản. Trong nhiều năm gần đây, sau nhiều lần đọc lại các trước tác của hai nhận vật kiệt hiệt này, chúng tôi nhận thấy có nhiều kinh nghiệm của người xưa - thành công cũng như thất bại - vẫn còn ý nghĩa cho đến ngày nay.

    Trong khuôn khổ bài viết này, ta hãy thử nhìn lại vị trí và đánh giá vai trò của Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh trong hành trình dân tộc vào thế kỷ XX.


    “Gọi hồn nước”

    Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản dội sang nước ta qua những tân thư (sách mới) và tân văn (báo mới của Lương Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Những trang sách tân thư tân văn mang đến cho các sĩ phu yêu nước không khí rạo rực của cuộc Minh Trị Duy tân ở Nhật Bản và khí thế sôi sục của Mậu Tuất Chính biến (1898) ở Trung Quốc. Sĩ phu Việt Nam lần đầu tiên nghe đến các học thuyết dân chủ, dân quyền, chủ nghĩa lập hiến và làm quen với các tên nghe lạ tai như Mạnh-đức-tư-cưu (Montesquieu), Lư-thoa (Rousseau), Phúc-lộc-đặc-nhĩ (Voltaire), v.v . Từ chỗ ếch ngồi đáy giếng thấy bao nhiêu trời, họ bắt đầu có tầm nhìn doanh hoàn (toàn cầu) - dĩ nhiên điều này không có nghĩa là ai ai nay cũng có thể nhìn một cách khách quan về đất nước hay về thế giới bên ngoài. Quan điểm cạnh tranh sinh tồn, mạnh được yếu thua (survival of the fittest) qua thuyết tiến hóa xã hội (social Darwinism) của Dật-nhĩ-văn (Darwin) mà ngày đó hãy còn gọi là thuyết vật cạnh (vạn vật cạnh tranh để sinh tồn), thiên diễn luận (sự tiến hóa tự nhiên của sự vật) hay thuyết tự do đào thải, khiến họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước.
    [​IMG]

    Phan Bội Châu về sau đã ghi lại trong tự truyện: Tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn[1]. Nỗi lo diệt chủng cũng được nhắc nhở trong bài Đề tỉnh quốc dân ca (không rõ tên tác giả) lưu truyền rộng rãi trong nước vào năm 1906:
    Nỗi diệt chủng bề thương bề sợ
    Nòi giống ta biết có còn không?


    Trong hàng ngũ các sĩ phu yêu nước vào đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu có lẽ là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Thơ văn Phan Bội Châu có ảnh hưởng sâu rộng đối với người đọc không chỉ vì những dòng thơ Phan mang nhạc điệu trầm hùng thiết tha, khi rạo rực sôi nổi, mà cũng vì những gì Phan nói lên thường khơi dậy nỗi nhục mất nước và kích động những cảm xúc sâu xa của tình tự dân tộc. Những câu sau đây ngày ngay đọc đến ta vẫn thấy xao xuyến trong lòng, huống hồ là đối với độc giả sống trong tình trạng mất nước vào đầu thế kỷ XX:

    Lời huyết lệ gửi về trong nước,
    Kể tháng ngày chửa được bao lâu
    Nhác trông phong cảnh Thần châu,
    Gió mây phẳng lặng dạ sầu ngẩn ngơ .
    Hồn cố quốc vẩn vơ vơ vẩn,
    Khôn tìm đường dò nhắn hỏi han
    Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn,
    Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau .

    (Hải hoại huyết thư (1906), Lê Đại dịch)

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...