Tài liệu Vì sao Đế quốc La Mã bị tiêu diệt?

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vì sao Đế quốc La Mã bị tiêu diệt?

    1. Dĩ nhiên đã có câu trả lời của các nhà sử học. Ở đây, trong một vị thế khác, các nhà xã hội học và nhân loại học muốn khảo sát vấn đề sụp đổ của đế quốc La Mã dưới góc độ tính văn hóa để nhìn thấy một đáp án khác thuộc về những chiều sâu nhân văn.
    Vào thời cổ đại, người La Mã thường thực hiện việc hôn nhân theo 4 hình thức. Một là cướp đoạt; hai là thể nghiệm; ba là cộng thực; và bốn là mua bán.
    Hình thức thứ nhất có tính cưỡng chiếm, xảy ra vào thời nguyên thủy. Khi nhân khẩu tăng trưởng, hình thức này được chuyển sang dạng thể nghiệm, tức là nam nữ sống chung một thời, sau đó mới xác định hôn nhân chính thức. Chỉ cần hai bên chung sống liên tục từ một năm trở lên, gia đình cô gái sẽ không còn quyền gia trưởng, và cô ta sẽ thuộc quyền của chồng và gia đình chồng. Thế nào là chung sống liên tục? Người La Mã quan niệm nếu rời bỏ người chồng trên danh nghĩa 3 ngày 3 đêm, coi như cô gái phải làm lại từ đầu.
    Thứ ba là hình thức hôn nhân cộng thực (cũng gọi là hôn nhân tôn giáo) được cử hành long trọng và theo những nghi thức phức tạp. Hôn lễ gồm 3 giai đoạn chính: tống thân (đưa dâu), nghinh thân (đón dâu) và cộng thực (thành thân). Thứ tư là hình thức hôn nhân mua bán. Hình thức này coi phụ nữ như một thương phẩm: Người đàn ông chỉ cần 5 người làm chứng và một người phụ trách chiếc cân là có thể mua được vợ. Trước những nhân chứng, chú rể một tay cầm một vật có giá trị xác định, một tay cầm khối đồng tuyên bố: Theo luật pháp La Mã, vật này là sở hữu của tôi, tôi dùng đồng và chiếc cân để mua lấy. Sau khi đặt đồng lên cân, anh ta được gia trưởng trao quyền làm chủ người vợ. Đây là hình thức hôn nhân đơn giản được lưu hành rộng rãi nhất ở La Mã thời đó.
    Xã hội La Mã cổ đại tuyệt đối hóa quyền của người chồng. Chồng có thể bỏ vợ bất kỳ lúc nào. Trái lại, người vợ luôn phải trung thành. Nếu bắt quả tang vợ ngoại tình, chồng có quyền giết vợ tại chỗ. Thậm chí chỉ cần nghe dư luận đồn đại vợ mình lăng nhăng, người chồng đã có thể xử lý.
    Đến năm 195 trước Công nguyên, phụ nữ La Mã vùng lên, lập thành đội ngũ vây kín Viện Nguyên lão, đòi quyền tự do. Từ lúc đó, không khí nghiêm khắc trong gia đình dần dần không còn nữa và dẫn đến sự phá sản nền đạo đức cũ. Thời này, mục đích chính của người đàn ông trong việc lập gia đình là để có của hồi môn. Vì thế chỉ cần người vợ không làm phiền mình, người chồng có thể cho cô ta tùy ý trong cách sống. Do đó đến khoảng thế kỷ thứ II trước CN, phụ nữ La Mã dần dà thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình. Hiện tượng ngoại tình và đời sống tình dục của họ cũng phóng khoáng không thua đàn ông. Trước đấy người phụ nữ không có quyền ly hôn, nhưng bây giờ họ có thể ly hôn với bất kỳ lý do nào. Đến nỗi một nhà thơ đương thời đã mỉa mai:
    Trong 5 mùa đông
    Nàng thay đến 8 chồng
    Và tự hào muốn khắc kỳ công lên bia mộ!
    Sự lỏng lẻo của gia đình khiến các ông chồng cực kỳ bất mãn. Vì thế hoàng đế Augustus đã ban bố pháp lệnh: Nếu phát hiện vợ tư thông, người chồng phải ly hôn, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Theo điều luật này, dâm phụ sẽ bị lưu đày đến một hòn đảo không có dấu chân người và không có quyền tái hôn. Còn dâm phu phải lưu đày đến một hòn đảo khác. Thậm chí đàn ông có vợ dan díu với kỹ nữ chưa đăng ký vẫn bị kết tội. Vì thế, số kỹ nữ đến đăng ký tăng vọt lên, đến nỗi nhiều danh môn quý phụ cũng xin đăng ký làm kỹ nữ!
    Khởi đầu sự phá sản
    Vào thời kỳ cuối của chế độ Cộng hòa, kịch viện và đấu trường phát triển rộng rãi ở La Mã khiến điều kiện gặp gỡ nam nữ dễ dàng hơn. Ở những sân khấu ngoài trời, trai gái có thể ngồi lẫn lộn để xem kịch hoặc đấu vật. Đây là điều kiện thuận lợi để tình yêu nảy nở tự do.
    Vào thời viễn cổ, người La Mã ít bàn về văn hóa do họ dồn hết tinh lực vào chiến tranh. Vì thế họ thích nói về kỷ luật, trách nhiệm, hơn là về tính văn hóa. Nhưng khi đại đế quốc La Mã kiến lập, người La Mã trở thành ông chủ của nhiều tài sản kếch xù và các nô lệ, cuộc sống xa hoa đã làm họ thay đổi. Ý thức về tính cũng biến dạng. Để thấy rõ sự chuyển hóa này, chúng ta có thể khảo sát sự sùng bái các vị thần của người La Mã. Đầu tiên họ sùng bái những hình tượng lạnh lùng, nghiêm túc, biểu trưng cho đạo đức trừu tượng có ý nghĩa bảo vệ người La Mã. Tiêu biểu nhất là nữ thần lửa bếp - người bảo vệ cho sự thịnh vượng quốc gia và sự bình yên của gia đình. Trong nhiều tác phẩm điêu khắc cổ La Mã, vị nữ thần này được tạo hình rất đoan trang, tư thế chính trực mặc dù hoàn toàn khỏa thân.
    Để thờ phụng vị nữ thần, người ta lựa chọn 6 trinh nữ từ những gia đình quyền quý. Từ lúc lên mười, 6 thiếu nữ trên được đưa vào đền để tuyệt đối hiến thân cho nghi thức thuần túy tôn giáo trong 30 năm. Đạo đức của những nữ tế nhân được coi là bảo chứng thiêng liêng về sự hưng vượng của quốc gia.
    2. Năm 216 trước Công Nguyên, đại quân La Mã thất trận. Cho đây là điềm gở, xuất phát từ sự băng hoại đạo đức của 6 nữ tế nhân, người ta đã cho xử tử họ. Thế nhưng, sau khi đã chinh phục được những vùng đất rộng lớn, dân La Mã lại đột nhiên chuyển ra phóng túng và sùng bái tửu thần Hy Lạp.
    [TABLE=width: 200, align: right]
    [TR]
    [TD]

    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]

    Khoảng đầu thế kỷ 2 sau Công Nguyên, người La Mã chuyển sang suy tôn thần Venus. Đây là vị thần đại diện cho tình yêu và tính dục. Vì thế cuộc sống tình dục của người La Mã đã trở nên cực kỳ phóng túng.
    Thời kỳ này, luật pháp La Mã rất trọng nam khinh nữ. Theo quy định, một cô gái muốn về nhà chồng phải có của hồi môn là 150 bảng vàng (khoảng 68 kg), và phải nộp cho nhà chồng trong hạn kỳ 3 năm. Chính vì thế, khi gả con gái út, triết gia Cicero (106 - 45 trước CN) phải tán gia bại sản, thậm chí phải trù tính kế hoạch ly hôn cho con gái để thu lại của hồi môn. Để tránh khỏi phí tổn quá lớn, nhiều người La Mã đã chọn cách giết chết con gái. Và chính luật pháp cũng quy định rằng cha mẹ phải dưỡng dục tất cả các con trai, nhưng trái lại, chỉ có trách nhiệm nuôi đứa con gái thứ nhất mà thôi. Điều này dẫn tới tình trạng trai thừa gái thiếu. Phụ nữ trở thành đối tượng săn lùng ráo riết của đàn ông. Vì thế, hiện tượng thiếu nữ thất trinh rất phổ biến trong xã hội.
    Sau khi La Mã chinh phục thế giới, sự tự do tình dục của phụ nữ cũng được nới rộng, nhất là đối với các quý phụ. Không gian giao tiếp khoáng đạt đã phá vỡ nền tảng đạo đức cũ. Người La Mã rất thực tế, họ coi tình ái là một hoạt động nhục thể, có liên quan mật thiết đến tiền bạc và không có ý nghĩa gì về tinh thần. Họ tuyệt đối không có kiểu tình yêu thuần túy tinh khiết của Plato. Xuất phát từ nhận thức bản chất nhục thể là công cụ của tính ái, và tính giao là hành vi tự nhiên giữa hai giới, các chàng trai và các cô gái La Mã đã thoải mái hẹn hò và thực hiện ân ái theo sự tự nguyện đôi bên. Bất kỳ ở đâu, trong phòng, ngoài đồng nội, nơi hành lang, tự miếu, đấu trường. Nói chung, người La Mã yêu nhau cực kỳ tự nhiên.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...