Thạc Sĩ Về việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam và pháp l

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
    Chúng ta đang sống trong một thế giới mà các quốc gia ngày càng trở lên liên đới chặt chẽ với nhau hơn. Sau 11 năm gian nan đàm phán với rất nhiều nỗ lực, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - thiết chế thương mại lớn nhất toàn cầu. Vận hội mới đã đến với toàn dân tộc cũng như các thương nhân Việt Nam. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp của chúng ta được tham gia trong một "sân chơi" chung với vô vàn cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Để có thể sánh vai cùng thiên hạ, không có cách nào khác là chúng ta phải năng động tìm lấy lợi thế cạnh tranh cho mình. Trong cuộc đua đó, sở hữu trí tuệ (SHTT) đóng một vai trò vô cùng quan trọng bởi đó là một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế, góp phần làm nên sự thịnh vượng của mỗi quốc gia.
    Trong tiến trình lịch sử, bảo hộ SHTT đã có từ gần 600 năm nay. Tài sản trí tuệ vừa là sản phẩm vừa là công cụ thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của kinh tế và văn hoá, xã hội. Đối với các nước phát triển, tri thức và kinh nghiệm trong khai thác và bảo hộ SHTT đã phát triển đến một trình độ rất cao với bề dày lịch sử hàng trăm năm. Với Việt Nam, một đất nước đang phát triển mà mục tiêu là nhanh chóng, chủ động hội nhập sâu rộng trong quan hệ kinh tế quốc tế thì việc bảo hộ SHTT vốn đã mới mẻ lại càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Bảo hộ SHTT của nước ta với sự khởi đầu là Nghị định số 31/CP của Hội đồng Chính phủ (nay là Chính phủ) ban hành ngày 23/01/1981 cho đến nay mới tròn 25 năm, so với kinh nghiệm hàng trăm năm của các nước phát triển quả là một khoảng cách quá lớn, đầy thách thức cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng.
    Trong khi đó, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và thương mại, các đối tượng của quyền SHTT ngày càng phát triển như vũ bão, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến vị thế cạnh tranh của chủ sở hữu nắm giữ quyền và xa hơn nữa là của chính quốc gia có quyền sở hữu đối tượng SHTT đó.
    Để hoà vào dòng chảy chung của xu hướng hội nhập nhưng không bị "hoà tan" mà vẫn giữ được vị thế trên thương trường, một mặt chúng ta phải cạnh tranh trên chính sân nhà (tức là thị trường trong nước), mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm cách vươn ra và thi thố tài năng ở những môi trường rộng lớn hơn. Trong cuộc trường chinh này, tài sản trí tuệ vừa là bệ đỡ, vừa là động lực và ngày càng trở nên quan trọng. Việc nghiên cứu xây dựng hệ thống bảo hộ SHTT tương thích với đòi hỏi của thế giới và thiết lập cơ chế thực thi chúng một cách hiệu quả, do vậy trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
    Trong các đối tượng SHTT, tuy mỗi đối tượng đều có vai trò nhất định nhưng xét trong tính chất quan hệ thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhãn hiệu (NH) trở nên nổi bật hơn cả. Nó gắn chặt với quá trình lưu thông hàng hóa và là một trong những tài sản có giá trị, thậm chí là một trong những nguồn vốn chủ yếu của doanh nghiệp trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, gay gắt với các đối thủ của mình.
    Theo số liệu thống kê của Cục SHTT, trong số các đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp ở Việt Nam thì số đơn về NH chiếm phần lớn (khoảng 70%). Con số này là minh chứng cho thấy ý nghĩa quan trọng của NH với các nhà sản xuất, kinh doanh. NH là phương thức ghi nhận, bảo vệ và thể hiện thành quả phát triển, tạo ra danh tiếng và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Mặt khác, NH cũng góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và trật tự xã hội nói chung.
    Trong khi đó, vi phạm liên quan đến NHHH đã và đang diễn ra phổ biến, ngày càng tinh vi và phức tạp, gây hậu quả tiêu cực cho chủ sở hữu, cho người tiêu dùng và cho xã hội. Do đó, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với NHHH luôn là vấn đề bức xúc được quan tâm hàng đầu ở hầu hết các nước trên thế giới mà Việt Nam cũng không là một ngoại lệ.
    Cổ nhân có câu: "Biết mình, biết người, trăm trận, trăm thắng", biết mình để phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu, nhưng như thế vẫn chưa đủ mà cần phải hiểu người, hiểu luật chơi chung và luật chơi của từng đối tác, từng thị trường, nhất là những thị trường chiến lược. Trong các đối tác thương mại đầy tiềm năng của Việt Nam, Hoa Kỳ - một thị trường có dung lượng nhập khẩu khổng lồ, cường quốc số một về tiềm lực kinh tế, công nghệ và các sản phẩm trí tuệ - là một trong số những tiêu điểm hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh Việt Nam.
    Mặc dù được đánh giá là đầy tiềm năng song đây cũng là thị trường khó tính, không chỉ bởi các rào cản kỹ thuật mà còn bởi các rào cản pháp lý khác. Trong lĩnh vực pháp luật về NHHH, vốn là một trong số những người đi tiên phong nên Hoa Kỳ có hệ thống pháp luật bảo hộ NH tương đối hoàn thiện và cơ chế thực thi khá hiệu quả. Tuy nhiên, các quy định về bảo hộ NHHH của Hoa Kỳ vẫn còn là nguồn tri thức khá mới mẻ với các doanh nghiệp cũng như giới nghiên cứu Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về bảo hộ NHHH theo pháp luật Hoa Kỳ trong tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam là một việc làm quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện nay, bởi nó không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn liên quan chặt chẽ với hoạt động thực tiễn của các thương nhân đất Việt trên con đường chinh phục thị trường chiến lược này. Hiểu rõ về pháp luật bảo hộ NHHH của Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta biết cách tiếp thu một cách chọn lọc các quy chuẩn tiến bộ về bảo hộ NHHH, hoàn thiện và tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trong nước, mặt khác hạn chế rủi ro và chủ động hơn trong cuộc chơi tại thị trường nước bạn.
    2. Tình hình nghiên cứu đề tài
    Cho đến nay, SHTT nói chung, NHHH nói riêng vẫn còn là mảnh đất mới khai phá còn đầy mới mẻ và phức tạp đối với các nhà hoạt động thực tiễn cũng như các nhà lý luận Việt Nam. Tư duy pháp lý về tài sản trí tuệ mới thực sự được du nhập cấp tập vào nước ta trong khoảng 10 đến 15 năm năm trở lại đây - một con số quá là ngắn ngủi so với lịch sử hình thành và phát triển của tài sản vô hình và pháp luật bảo hộ chúng. Tuy vậy, trong khoảng thời gian đó, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn đã làm được khá nhiều công việc có ý nghĩa đối với việc phát triển những tri thức khoa học về quyền SHTT cũng như về pháp luật bảo hộ quyền SHTT, góp phần nâng cao hiểu biết, nhận thức của doanh nghiệp, của nhân dân về vấn đề này. Số lượng các công trình khoa học, các cuộc hội thảo, các bài viết về quyền SHTT ngày càng nhiều và có chất lượng cao.
    Tuy nhiên, riêng đối với NHHH thì số lượng các công trình khoa học là chưa nhiều. Việc nghiên cứu được đề cập trong một số công trình khoa học, một số luận án, luận văn và chủ yếu dừng lại ở các bài viết trên các tạp chí. Cụ thể, đã có một số bài viết như "Một số vấn đề về nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng" của tác giả Nguyễn Như Quỳnh (Tạp chí Luật học, số 2/2001), "Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam" của Thạc sĩ Lê Hoài Dương (Tạp chí Toà án nhân dân, số 10-2003) v.v ; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ĐHQG năm 2002: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ trên thế giới và phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ" của TS. Nguyễn Thị Quế Anh; các luận văn thạc sĩ: "Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa tại Việt Nam theo quy định của pháp luật dân sự" của Vũ Thị Hải Yến; "So sánh pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam với các điều ước quốc tế và pháp luật một số nước công nghiệp phát triển" của Vũ Thị Phương Lan; "Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp hoàn thiện" của Hồ Ngọc Hiển; "Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo pháp luật Việt Nam" của Trần Nguyệt Minh; v.v Như vậy, bảo hộ NHHH được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng bảo hộ NHHH theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ trong mối liên hệ, đánh giá, so sánh về từng khía cạnh của vấn đề là một đề tài độc lập và không trùng lặp với các đề tài trên. Mặc dù vậy, tác giả luôn có ý thức kế thừa, học hỏi những kết quả mà các công trình khoa học, luận án, luận văn, các bài viết đã đạt được cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan đến đề tài.
    3. Mục đích nghiên cứu
    Mục đích của luận văn là:
    Về mặt lý luận:
    - Làm sáng tỏ các quy định về bảo hộ NHHH trong pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ
    - Trên cơ sở phân tích, so sánh các quy định về bảo hộ NHHH của Việt Nam và Hoa Kỳ, đề xuất một số quan điểm, phương hướng, biện pháp phù hợp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ NHHH và tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi chúng.
    Về mặt thực tiễn:
    - Trang bị kiến thức cơ bản về đăng ký và bảo hộ NHHH tại Hoa Kỳ; khuyến cáo các điểm lưu ý đối với các nhà sản xuất, xuất khẩu và kinh doanh hàng hóa trong thị trường Hoa Kỳ.
    4. Phạm vi nghiên cứu
    Bảo hộ NHHH theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa kỳ là một đề tài rộng và phức tạp, nhất là liên quan đến thực tiễn bảo hộ NHHH của hai nước còn ngổn ngang bao vấn đề cần có lời giải đáp. Không thể cầu toàn, với vốn hiểu biết còn hạn hẹp cùng với sự hạn chế về thời gian, không gian nghiên cứu nên trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về nội dung pháp luật thực định của hai nước về vấn đề bảo hộ NHHH.
    5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
    Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền, các quan điểm về xây dựng và thực thi pháp luật, về đường lối đổi mới và chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam và các văn bản pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Đồng thời, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu khoa học nói chung, khoa học pháp lý nói riêng như: phương pháp phân tích; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp thống kê; phương pháp tổng hợp và các phương pháp khác, kết hợp lý luận và thực tiễn để giải quyết các vấn đề đặt ra.
    6. Ý nghĩa thực tiễn và những đóng góp của đề tài
    Khi nghiên cứu đề tài này, người viết không đặt ra quá nhiều tham vọng mà trước hết là trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho bản thân; đồng thời, góp một phần nhỏ bé của mình vào tiếng nói chung của giới luật học nhằm hoàn thiện pháp luật về NHHH của Việt Nam cùng cơ chế thực thi chúng; góp thêm đôi điều vào việc xây dựng hành trang kiến thức cho các thương nhân Việt Nam để hạn chế rủi ro, chủ động trong cuộc chơi trên thị trường Hoa Kỳ - xứ sở vốn có những đòi hỏi khá khắt khe với các doanh nghiệp nước ngoài.
    7. Kết cấu của luận văn
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
    Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhãn hiệu hàng hóa và pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
    Chương 2: Nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam và pháp luật Hoa Kỳ về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa
    Chương 3: Những đề xuất và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của Việt Nam và hạn chế rủi ro trong đăng ký - bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa của thương nhân Việt Nam tại Hoa Kỳ
     
Đang tải...