Thạc Sĩ Văn hoá doanh nghiệp trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 24/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Khóa luận tốt nghiệp: Văn hoá doanh nghiệp trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam

    Khóa luận tốt nghiệp TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ----------***---------- Khóa luận tốt nghiệp KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP TÊN ĐỀ TÀI: VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM Họ và tên sinh viên : Đặng Thị Loan Lớp : Nhật 3 Khoá : 41F Giáo viên hướng dẫn : Cô Vũ Thị Hạnh Hà Nội, tháng 11 năm 2006 Đặng Thị Loan 1 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp LỜI MỞ ĐẦU Ở bất kỳ đâu và trong bất kỳ thời điểm nào, đối với một doanh nghiệp, con người luôn là yếu tố cốt lõi làm nên thành công. Một doanh nghiệp quy mô càng lớn, kết cấu càng phức tạp thì sự liên kết giữa các thành viên càng trở nên khó khăn. Làm thế nào để doanh nghiệp có thể phát huy tối đa nguồn lực nhân sự của mình, tìm kiếm và đào tạo nhân tài, khiến họ nỗ lực hết mình, tận tuỵ phục vụ và trung thành với doanh nghiệp? Trước kia, câu trả lời đơn giản là “tiền lương”. Một số nhà lãnh đạo cho rằng: lương cao là yếu tố quyết định đến hiệu quả công việc, khiến các thành viên gắn bó với doanh nghiệp. Tất nhiên điều đó là đúng nhưng không đủ. Ngoài tiền lương, tính chất công việc, môi trường làm việc, cách thức lãnh đạo, tổ chức, quản lý trong doanh nghiệp .cũng có tác động không nhỏ đến sự gắn bó của các thành viên với doanh nghiệp. Vì vậy, hiện nay, điều mà các nhà quản trị quan tâm là xây dựng văn hóa doanh nghiệp. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, vấn đề văn hóa doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức.Với đa số các doanh nghiệp, công ty, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp dường như còn là việc khá mơ hồ. Các doanh nghiệp cần phải nhận thức được rằng: văn hóa doanh nghiệp là tài sản vô hình, góp phần phát huy mọi nguồn lực con người, là gạch nối, có khả năng tạo ra lực điều tiết, tác động (tích cực hay tiêu cực) đối với tất cả các yếu tố chủ quan, khách quan khác nhau, làm gia tăng nhiều lần giá trị của từng nguồn lực con người đơn lẻ, nhằm góp phần vào sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Trong thời buổi kinh tế phát triển mạnh mẽ như hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá lan toả đến từng ngõ ngách của cuộc sống, vai trò của ngân hàng Đặng Thị Loan 2 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp thương mại ngày càng được khẳng định. Là loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ, xuất phát từ đặc thù của các hoạt động nghiệp vụ, ngân hàng thương mại phải thường xuyên tiếp xúc, quan hệ với khách hàng. Do đó, đây là một trong số những lĩnh vực cần đặt vần đề xây dựng văn hóa doanh nghiệp là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển. Đối với một ngân hàng thương mại, văn hóa ngân hàng cần được nhấn mạnh trên hai mặt: văn hóa nội bộ ngân hàng và văn hóa quan hệ khách hàng. Hai mặt này tạo nên ưu thế rõ nét trong cạnh tranh, giúp ngân hàng đứng vững và ngày một phát triển. Với đề tài: “Văn hoá doanh nghiệp trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” người viết phân tích vai trò, thực trạng xây dựng văn hóa ngân hàng trong hệ thống ngân hàng thương mại đồng thời đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng của hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận bao gồm ba chương như sau: Chương I: Khái quát chung về văn hoá doanh nghiệp Chương II: Văn hoá doanh nghiệp trong ngân hàng thương mại và thực trạng ở Việt Nam. Chương III: Giải pháp xây dựng và phát triển văn hoá doanh nghiệp trong các ngân hàng thương mại Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Kinh tế ngoại thương và đặc biệt là cô Vũ Thị Hạnh đã giúp em hoàn thành bài khoá luận này. Do trình độ nhận thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu không nhiều, hơn nữa văn hoá doanh nghiệp trong ngân hàng là một lĩnh vực mới đang bắt đầu được các ngân hàng ở Việt Nam nghiên cứu, áp dụng nên bài khoá luận không thể tránh khỏi Đặng Thị Loan 3 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô để có thể bổ sung, hoàn thiện bài khoá luận này. Đặng Thị Loan 4 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp CHƯƠNG I KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP 1. Khái niệm văn hoá Để hiểu được khái niệm “văn hoá doanh nghiệp” (VHDN), trước hết phải hiểu khái niệm “văn hoá”. Trong cuộc sống hàng ngày người ta thường hiểu “văn hoá” theo nghĩa không đầy đủ để chỉ học thức (trình độ văn hoá), lối sống (nếp sống văn hoá). Thực chất, hiểu theo nghĩa rộng thì “văn hoá” bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động . Đây chính là cách hiểu đầy đủ, chính xác và toàn diện nhất về “văn hoá”. Tuy nhiên, việc tìm ra một định nghĩa chuẩn trong vô vàn các định nghĩa về “văn hoá” là rất khó khăn vì mỗi định nghĩa đều dựa trên những cách tiếp cận và phân tích khác nhau nhưng đều rất hợp lý và khoa học. Định nghĩa được sử dụng khá phổ biến là định nghĩa do ông Frederico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO đưa ra: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi, hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động”. Định nghĩa này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá năm 1970 tại Venise. Đến năm 1982, Hội nghị thứ hai gọi là “Mondiacult” cũng đã thừa nhận cách tiếp cận đó. Tuy nhiên, để phục vụ cho việc tìm hiểu khái niệm VHDN, ta có thể tìm hiểu thêm định nghĩa của hai nhà xã hội học Xvi Namenwirth và Rober Weber: “Văn hoá là một hệ thống các quan niệm và các quan niệm này cấu thành nên một phác thảo về lối sống”. Đặng Thị Loan 5 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp Từ hai định nghĩa trên về văn hoá có thể thấy một điểm cơ bản sau: mỗi nền văn hoá có hai mặt. Một mặt là những cái vô hình không chỉ cực kỳ phức tạp mà còn rất quan trọng. Đó là những quy luật tư duy của con người, như tri thức, tín ngưỡng, nhân phẩm, những ý tưởng và quan niệm, chúng điều tiết quan hệ giữa con người với con người, và giữa con người với môi trường của họ. Mặt khác là các hành động, các loại hình hoạt động và sáng tạo vật chất của con người. Mặc dù hình thức văn hoá này bản thân nó rất phức tạp và có ý nghĩa, như nghệ thuật và các hình thức tôn giáo, lễ nghi . Nhưng cái phức tạp và đáng xem xét hơn là những quan niệm đằng sau những lễ nghi và hình thức tôn giáo đó. 2. Khái niệm văn hoá doanh nghiệp Thuật ngữ VHDN mới được chúng ta làm quen trong những năm gần đây, song trên thực tế, thuật ngữ này đã tồn tại khá lâu trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Các nhà nghiên cứu đã tổng kết rằng một trong những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp (DN) ở Mỹ hay Nhật có sự thịnh vượng lâu dài là do các DN có nền VHDN đầy sức mạnh. Đã có rất nhiều định nghĩa về VHDN được đưa ra, thông dụng nhất là các định nghĩa sau: “VHDN là tổng hợp các giá trị, biểu tượng, huyền thoại, nghi thức, các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh nghiệp”. (Định nghĩa của ông Georges de Saite Marie, chuyên gia người Pháp về doanh nghiệp vừa và nhỏ – sách “Xây dựng doanh nghiệp vừa và nhỏ” – NXB Đồng Nai-1996). “VHDN là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, thái độ, các tiêu chuẩn, thói quen và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là Đặng Thị Loan 6 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp duy nhất đối với một tổ chức đã biết”. (Định nghĩa của tổ chức lao động quốc tế I.L.O- International Labour Organization). “VHDN là những giá trị, lòng tin, truyền thống và hành vi thường được các thành viên của tổ chức chia sẻ và thực hiện”. (Tạp chí “Business Havard Review”- trường đại học Havard – Mỹ – số tháng 6/1999). Tuy nhiên các định nghĩa trên phần nào mang tính liệt kê chứ chưa nêu bật được nội dung cốt lõi của VHDN. Định nghĩa sau đây là ngắn gọn hơn cả và phản ánh được cả bản chất lẫn quá trình hình thành của VHDN: “Văn hoá công ty là tổng hợp những quan niệm chung mà các thành viên trong công ty học được trong quá trình giải quyết các vấn đề nội bộ và xử lý các vấn đề môi trường xung quanh” (Edgar H.Shein – sách “Corporate Culture and Leadership” – Jossey Bass Publishers.San Francisco). Định nghĩa này khá gần gũi với định nghĩa “văn hoá” của Zvi Namenwirth và Rober Weber đã được nêu ở phần trên. Đây là cách tiếp cận độc đáo, đi từ hiện tượng đến bản chất của một nền văn hoá, giúp cho chúng ta có thể hiểu được một cách đầy đủ và sâu sắc những yếu tố cấu thành nên nền văn hoá đó. II. CÁC YẾU TỐ CỦA VĂN HOÁ DOANH NGHIỆP 1. Một số nét văn hoá hữu hình Bao gồm tất cả những hiện tượng mà một người nhìn, nghe và cảm thấy khi tiếp xúc với một tổ chức có nền văn hoá xa lạ như: ngôn ngữ, công nghệ, sản phẩm, phong cách của tổ chức đó thể hiện qua cách ăn mặc, cách biểu lộ cảm xúc của nhân viên, những câu chuyện và những huyền thoại về tổ chức, các buổi lễ kỉ niệm hàng năm .Nói cách khác, người quan sát có thể mô tả những gì họ nhìn thấy và cảm thấy khi bước chân vào một DN nhưng lại không hiểu được ý nghĩa thực sự ẩn sau nó. Cũng giống như đối với những Đặng Thị Loan 7 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp Kim tự tháp của người Ai Cập cổ và người Maya, là người đứng ngoài quan sát chúng ta chỉ có thể nhận ra chúng đều là những Kim tự tháp có hình dạng giống nhau, chứ không hiểu được ý nghĩa bên trong khác nhau của chúng: đối với người Ai cập cổ thì Kim tự tháp là lăng mộ của các vị vua Pharaon; trong khi đối với người Maya thì Kim tự tháp lại vừa là lăng mộ vừa là chốn đền thờ linh thiêng. Để hiểu được ý nghĩa đó họ phải thực sự hoà nhập vào cuộc sống trong DN một thời gian đủ dài và cách tốt nhất là tìm hiểu những giá trị, thông lệ và quy tắc được thừa nhận trong DN, vốn là kim chỉ nam cho hành vi của mọi thành viên của DN đó. 1.1 Khẩu hiệu công ty Slogan - khẩu hiệu thương mại, nguyên nghĩa cổ là tiếng hô trước khi xung trận của những chiến binh Scotland. Ngày nay trong thương mại, slogan được hiểu như là khẩu hiệu thương mại của một công ty. Slogan thường được coi là một phần tài sản vô hình của công ty dù rằng nó chỉ là một câu nói. Để có được một slogan hay, ngoài việc đầu tư về chất xám còn phải có sự đầu tư về quảng cáo liên tục với những chiến lược dài hạn. Chính vì vậy, khi có được một slogan đứng được trong tâm trí khách hàng, slogan đó đã trở thành một tài sản vô giá được vun đắp bằng thời gian, tiền bạc và uy tín của công ty. Một slogan hay phải hội tụ được một số yếu tố sau: Thứ nhất là mục tiêu. Một khẩu hiệu khi được đưa ra phải mang một mục tiêu nhất định và hướng đến mục tiêu đó. Ví như khi Pepsi ra đời thì Coca Cola đã là một người khổng lồ trong ngành giải khát rồi. Muốn phát triển được thì phải có một khẩu hiệu nhắm đến một mục tiêu là lấy lại được thị phần từ Coca Cola. Hãng nước giải khát Pepsi đã lấy khẩu hiệu là: "Next Generation" (Thế hệ tiếp nối), ý nói đó là một loại nước uống của thế hệ mới và ngầm ý chê bai đối Đặng Thị Loan 8 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp thủ trực tiếp Coca Cola là loại đồ uống cổ lỗ sĩ. Với khẩu hiệu hay mang trong mình mục tiêu rõ ràng là đánh vào khách hàng trẻ tuổi, Pepsi đã thu hút được phần đông giới trẻ và vươn vai trở thành một đối thủ đáng gờm của Coca Cola. Thứ hai là ngắn gọn. Một khẩu hiệu hay luôn phải là một khẩu hiệu ngắn gọn, dễ hiểu, dễ đọc. Với nhiệm vụ phải đi vào tiềm thức của khách hàng, không ai đi xây dựng một khẩu hiệu dài dằng dặc đầy đủ toàn bộ về tính năng, tác dụng, tính ưu việt của sản phẩm , bởi khách hàng sẽ không ai bỏ công để nhớ một khẩu hiệu dài lõng thõng như vậy. Cà phê Trung Nguyên đã phải thay thế khẩu hiệu cũ: "Mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới" bằng "Khơi nguồn sáng tạo". Quả thực khẩu hiệu sau ngắn gọn, ấn tượng và dễ nhớ hơn nhiều. Thứ ba là phù hợp với văn hóa Khẩu hiệu phải tuyệt đối tránh những từ ngữ có thể gây phản cảm hoặc xúc phạm đến người khác cho dù đó chỉ là một bộ phận khách hàng rất nhỏ. Nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh DHL đã từng mắc lỗi này khi đưa ra một khẩu hiệu gây một ấn tượng không tốt: "Đến chậm gậm xương". Thứ tư, cần nhấn mạnh vào lợi ích sản phẩm. Khẩu hiệu phải thể hiện được tính năng và lợi ích khi khách hàng sử dụng sản phẩm. Ví như: "Kết nối mọi người” của hãng điện thoại di động Nokia hay "Luôn luôn lắng nghe. Luôn luôn thấu hiểu" của hãng bảo hiểm quốc tế Prudential. Tuy nhiên những điều kiện trên chỉ là những điều kiện cơ bản. Một khẩu hiệu thành công phải mang trong mình thông điệp ấn tượng và khơi gợi được trí tưởng tượng của khách hàng về sản phẩm của mình. Sản phẩm đồ thể thao của tập đoàn Nike đã cất cánh cùng với một khẩu hiệu được đánh giá là thành công nhất mọi thời đại: "Just Do It!" (Hãy làm điều đó!). Đặng Thị Loan 9 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp 1.2 Thương hiệu Để có được một thương hiệu sản phẩm, nhất là một thương hiệu đứng vững trên thị trường là cả một quá trình nghiên cứu, đầu tư và xây dựng lâu dài. Có được thương hiệu đã khó nhưng bảo vệ thương hiệu đang có cũng khó khăn không kém. Biết chọn lựa đúng đắn, sáng suốt, thương hiệu sẽ là một trong những yếu tố đem lại thành công cho một sản phẩm hay một dịch vụ của DN. Thương hiệu cho phép khách hàng phân biệt được sản phẩm của công ty bạn với đối thủ cạnh tranh và có khả năng thể hiện một cách gây ấn tượng bền vững, không bị pha trộn, nhầm lẫn, vừa tạo được một nét văn hóa cho DN. Đã từ lâu, thương hiệu nước giải khát Coca Cola được người tiêu dùng trên toàn thế giới biết đến và theo thống kê của tờ báo Business week, trong 100 thương hiệu nổi tiếng trên thế giới Coca Cola là thương hiệu có giá trị cao nhất (70,45 tỷ USD). 1.3 Đồng phục Trong văn hoá kinh doanh, trang phục phổ biến của nam là những bộ Complet truyền thống với màu xanh hoặc xám đi cùng với áo sơ mi trắng và cà vạt tối màu. Những bộ complet này xuất hiện ngay cả ở những công ty có quy mô vừa và lớn thậm chí ngay cả ở văn phòng chính phủ, tuy nhiên những chiếc áo sơ mi có màu phấn nhẹ ngày nay được ưa chuộng hơn. Trang phục phổ biến cho phụ nữ nơi công sở là quần tây, đồ bộ bó dài đi với giày cao gót, tuỳ thuộc vào công việc họ làm; trong công xưởng họ thường phải mặc đồng phục. Đối với nhân viên làm việc văn phòng thì trong rất nhiều công ty hiện nay nhân viên nữ ăn mặc gần giống những nhân viên nữ ở các nước phương Tây . mặc dù nhiều công ty khác vẫn tiếp tục yêu cầu mặc trang phục kiểu truyền thống, đó là các công ty mang tính truyền thống và mang đậm bản sắc dân tộc như : Công ty hàng không, Công Đặng Thị Loan 10 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp ty du lịch . Khi đó, bộ áo dài sẽ trở nên thật duyên dáng với những nhân viên nữ trong công ty, lại tạo được nét văn hóa truyền thống. 1.4 Bài hát truyền thống của công ty Bài hát của một công ty là nhằm thắt chặt tình đoàn kết trong công ty đó vì một mục đích chung. Từ lâu, đó đã là một nét văn hóa công ty. Nhưng truyền thống tuyển dụng cả đời, thường có ở các công ty lớn, đã mất dần từ 10 năm nay. Có vẻ như truyền thống bài hát công ty cũng sẽ mất đi, nhưng thực tế không hẳn như vậy. Với một công ty vốn cũng bình thường, đang chật vật trong một ngành cạnh tranh gay gắt, bài hát là một sự quảng cáo quí giá, giúp họ trội hơn các đối thủ. 1.5 Logo và thiết kế logo trong kinh doanh Một logo tốt đưa công ty vượt ra khỏi sự im lặng, nó thể hiện sức mạnh và giá trị của công ty. Một công ty phát đạt luôn quan tâm tới tiếp thị và một công ty quan tâm tới tiếp thị không bao giờ chấp nhận một logo mờ nhạt. Một logo tốt thường là sự kết hợp giữa tính đơn giản và tính độc đáo. Trong bất kì trường hợp nào, logo cần được thiết kế để có thể gây ấn tượng ở ngay cái nhìn đầu tiên. Mục đích là chỉ sau một vài lần nhìn, người ta có thể cảm thấy quen với logo đó và có thể phân biệt giữa hàng trăm logo khác vẫn thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Logo phải diễn tả được một số đặc trưng của công ty như hình ảnh trụ sở chính, sản phẩm, màu sắc, và những chữ cái xuất phát từ tên của công ty. Thông thường một logo ấn tượng khi nó có khả năng đứng độc lập. Nghĩa là chỉ cần nhìn vào logo, người ta cũng có thể đọc được tên của công ty có logo đó. Cũng giống như nhãn hiệu, logo là tài sản riêng của công ty. Nhưng logo khác nhãn hiệu là nó dễ bảo vệ hơn. Một logo tốt khiến khách hàng nhớ Đặng Thị Loan 11 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp đến sản phẩm của công ty nhanh hơn và bền lâu hơn. Con người thông thường ưa thích tiếp nhận thông tin qua mắt hơn, thích tiếp nhận hình ảnh hơn là con chữ. Bên cạnh đó, trong thời buổi hội nhập quốc tế, logo tốt sẽ giúp các công ty đến với khách hàng mà không phải mất quá nhiều thời gian giải quyết trở ngại bất đồng ngôn ngữ. Người ta có thế không biết "shell" có nghĩa là gì, nhưng logo hình vỏ sò nổi tiếng của công ty này được biết tới ở khắp nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, công ty Biti’s đã có một logo tuyệt vời ở tầm quốc tế, hệ thống cửa hàng ăn nhanh Mcdonald’s có một lôgô với chữ M cong rất độc đáo. 1.6 Giá trị của truyền thống công ty, huyền thoại về các nhân vật anh hùng của DN Việc định hình nên các giá trị, niềm tin, huyền thoại, quy tắc . và việc truyền đạt chúng là cả một quá trình lâu dài, nó đòi hỏi sự nhẫn nại cao độ của nhà lãnh đạo. Những lời phát biểu suông tại các cuộc họp, những lời huấn thị từ văn phòng điều hành sẽ không thuyết phục bằng chính hành động của nhà lãnh đạo và sự tiếp xúc thường xuyên với các nhân viên tại chính các phân xưởng. Điều này không chỉ giúp nhà lãnh đạo giám sát công việc của cấp dưới, mà còn để truyền đạt thông tin, làm cho nhân viên cảm thấy gần gũi và tin tưởng vào nhà lãnh đạo của mình. Chính trong quá trình truyền đạt này, hệ thống giá trị, niềm tin, quy tắc của nhà lãnh đạo sẽ được kiểm nghiệm và công nhận, trở thành “hệ thống dẫn đạo” chung cho toàn DN. Các chuyện kể, huyền thoại, truyền thuyết được sử dụng như một phương thức huyền diệu để truyền đạt và nuôi dưỡng những giá trị, quy tắc . chung. Chúng thổi sinh khí vào mọi hành động, ý nghĩ của nhân viên, làm cho nhân viên thực sự hãnh diện về công ty của mình, coi công ty là môi trường thân thuộc để cống hiến và phát huy mọi năng lực. Để các chuyện kể, huyền Đặng Thị Loan 12 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp thoại và truyền thuyết vừa tạo ấn tượng sâu đậm, vừa phục vụ cho mục tiêu của công ty thì chúng không nên chỉ nhằm đả kích, lôi kéo hay vận động, hoặc chỉ xuất hiện trong các bài phát biểu vào dịp lễ hội. Nhà lãnh đạo có kinh nghiệm trong quản lý hệ thống giá trị của DN thường biết gắn kết chúng với hoạt động thường ngày của DN, làm cho chúng thấm dần một cách tự nhiên vào cách ứng xử, hành vi của mọi thành viên trong xí nghiệp. Các lễ hội, lễ kỉ niệm, buổi gặp mặt, biểu tượng, phù hiệu . cũng đóng vai trò rất lớn trong việc truyền đạt hệ thống giá trị, niềm tin, quy tắc .góp phần tạo ra những nét đặc thù riêng của từng DN. Giống như khi nhắc đến Toyota người ta nghĩ ngay đến biểu tượng ba hình elip đan nhau, Mercedes Benz với biểu tượng chiếc vô lăng, Mitsubishi với biểu tượng ba hình thoi chung đỉnh cách đều nhau . 1.7 Lịch sử công ty Đối với một người ngoài cuộc, để đánh giá đầy đủ hiện trạng và triển vọng trong tương lai của một tổ chức thì cần phải biết tổ chức đã và đang vận hành như thế nào. Việc lý giải những hoạt động và quyết định trước đây của DN có thể giúp gợi ý những phương pháp hoạt động, năng lực quản lý và triển vọng bán hàng trong tương lai, v.v .và có thể là một yếu tố quan trọng cho việc dự đoán khả năng thành công của DN hay ý tưởng kinh doanh dự kiến. Các thông tin cụ thể là rất quan trọng để hiểu đầy đủ về lịch sử phát triển của một tổ chức. Công ty được thành lập như thế nào và tại sao được thành lập. Rất nhiều công ty được thành lập ngẫu nhiên. Khi nhận thấy cơ hội thì bất cứ ai ở đúng vị trí và đúng thời điểm đều có thể trở thành một phần của tổ chức mới. Cho dù nhiều công ty thành công đã được thành lập theo cách này, nhưng tốt hơn cả là Đặng Thị Loan 13 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp vẫn phải chỉ ra rằng công ty, các thành viên chủ chốt và địa điểm của nó v.v . đã được hình thành theo một kế hoạch được tính toán kỹ. Khi tìm hiểu lịch sử công ty người ta cũng quan tâm đến sản phẩm chính hay dịch vụ đầu tiên của công ty, nó đã đáp ứng những nhu cầu và những điều kiện của thị trường như thế nào. Tại sao công ty được đặt tên như thế? Tên của công ty được khách hàng, nhân viên chấp nhận ra sao? v.v . Tên của nhiều công ty thường dựa trên ý tưởng của người thành lập hơn là dựa trên một mục đích kinh doanh rõ ràng. Ví dụ như, nếu một công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, nó có thể có các khách hàng mới dễ dàng hơn nếu như từ “xây dựng” có trong tên của công ty. Tất nhiên là một số công ty rất thành công lại có những cái tên không tường minh hoặc thậm chí gây hiểu lầm. Điều quan trọng ở đây là sự chấp nhận tên công ty từ phía khách hàng, nhân viên công ty, từ những người bán hàng hay công chúng. Hình thức pháp lý nào được lựa chọn và tại sao: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, DN tư nhân/hộ gia đình hay hợp tác xã. Hình thức pháp lý thường xác định khi cân nhắc các điều kiện góp vốn ban đầu hoặc các trách nhiệm pháp lý phát sinh khi bước vào hoạt động. Những nguồn lực nào cần phải có và làm sao để có chúng. Công ty lấy vốn từ đâu để xây dựng nhà xưởng, mua thiết bị và hình thành tài sản lưu động. Các mối quan hệ giữa ngân hàng và nhà đầu tư cũng được đề cập ở đây. Tác dụng của vấn đề này là thiết lập các nguồn lực làm cho công ty “cất cánh”. Công ty đã có và phát triển các mối quan hệ đặc biệt với công ty khác cũng như với các đại lý bán lẻ hay khách hàng chưa. Một Công ty mới thường dựa vào một khách hàng chính ban đầu. Hoặc có thể một nhà cung ứng là hữu ích trong việc đưa Công ty phát triển, nhờ đó doanh thu có thể tăng lên. Đặng Thị Loan 14 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp 2. Triết lý kinh doanh của doanh nghiệp Là ý tưởng, tôn chỉ, phương châm hành động làm cho DN đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Triết lý kinh doanh vạch ra mục tiêu, phương thức thực hiện và các giá trị đạo đức cho mọi thành viên nên nó là cốt lõi của phong cách DN, là hạt nhân và là trụ cột của VHDN. “Triết lý kinh doanh là những tư tưởng triết học phản ánh thực tiễn kinh doanh thông qua con đường trải nghiệm, suy ngẫm, và khái quát hoá của các chủ thể kinh doanh.” [1,Tr.200]. Theo khái niệm này thì con đường chung hình thành triết lý kinh doanh là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để đi đến các tư tưởng triết học về kinh doanh. Tác giả của triết lý kinh doanh thường là người hoạt động kinh doanh. Các triết lý kinh doanh đều có tính nghề nghiệp cao, chính vì thế không thể lầm tưởng triết lý kinh doanh với các quy luật hay các nguyên tắc triết học. Một nhà kinh doanh có thể vận dụng triết lý kinh doanh khi họ hoạt động ở quy mô cá thể, vào tổ chức DN của mình khi người đó đã trưởng thành, đã hoạt động với tư cách là nhà quản lý DN, ví dụ triết lý “khách hàng là thượng đế” hay “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu” .Vì triết lý kinh doanh là sự phản ánh có mục đích phục vụ cho chủ thể kinh doanh nên sự khác nhau về quy mô, tính chuyên ngành của nó mang tính khách quan, biểu hiện những nét đặc thù của hoạt động kinh doanh. Triết lý kinh doanh chỉ có giá trị phổ quát khi nó áp dụng được trong các DN. Khi đó triết lý kinh doanh được gọi là triết lý DN. Nói cách khác nó là triết lý kinh doanh chung của tất cả các thành viên trong một DN cụ thể. Triết lý DN có thể được hình thành từ kinh nghiệm kinh doanh của người sáng lập và lãnh đạo DN hoặc theo kế hoạch của ban lãnh đạo. Nhưng nhìn chung thì dù hình thành như thế nào, mỗi DN khi xây dựng triết lý kinh Đặng Thị Loan 15 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp doanh đều có một mục đích: nó sẽ là một thông điệp giúp nhân viên toàn DN hoặc nhắc nhở họ về những thái độ cần có và những hành động cần làm. Triết lý kinh doanh đã trở thành một từ thông dụng. Việc sử dụng nó trong các cuộc đối thoại, thảo luận đã trở thành “mốt”, thành một trong những tiêu chuẩn cơ bản chứng tỏ “đẳng cấp văn hoá” của nhà kinh doanh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối với đa số, thường thường, sự thừa nhận đó mang tính hình thức hơn là nội dung và giá trị thực tiễn. Triết lý kinh doanh là một thuật ngữ quá cao siêu, trừu tượng, không định hướng, cón mối liên hệ giữa nó với các hoạt động thường ngày cụ thể, trần tục, và đầy toan tính lại quá mông lung, khó nắm bắt và do đó, khó vận dụng được vào các hành động thực tiễn một cách thiết thực và hiệu quả. Nhưng vượt ra ngoài giá trị “trưng diện”, giờ đây, xuất phát từ kinh nghiệm và bằng chứng thực tế, chắc không mấy ai không thừa nhận sự cần thiết của triết lý kinh doanh. Đúng là kinh doanh phải có triết lý. Nhà kinh doanh phải dựa vào và tuân theo một triết lý nào đó, coi đó là kim chỉ nam cho hành động của mình. Có thể tóm tắt vai trò của triết lý kinh doanh trong một số điểm sau : - Triết lý kinh doanh là cốt lõi của VHDN, tạo ra phương thức phát triển kinh doanh bền vững. VHDN bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, trong đó, hạt nhân của nó là các triết lý và hệ giá trị. Mỗi yếu tố cấu thành của VHDN có một vị trí, vai trò khác nhau trong hệ thống chung. Triết lý DN vạch ra sứ mạng - mục tiêu, là một hệ các giá trị có tính pháp lý, chủ yếu là giá trị đạo đức của DN, từ đó tạo nên một phong thái văn hoá đặc thù của DN. Nói gọn hơn, triết lý DN là cốt lõi của phong cách - phong thái của DN đó. Đặng Thị Loan 16 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp Triết lý DN rất khó thay đổi, nó là cơ sở bảo tồn phong thái và bản sắc văn hoá của DN. Nó phản ánh cái tinh thần - ý thức của DN ở trình độ, bản chất có tính khái quát, cô đọng và hệ thống hơn so với các yếu tố ý thức đời thường và tâm lý xã hội. Một khi đã phát huy được tác dụng thì triết lý DN rất ít thay đổi, nó trở thành ý thức lý luận và hệ tư tưởng chung của DN, bất kể có sự thay đổi về lãnh đạo. Ông Akio Morita, cựu Chủ tịch công ty Sony nhận xét: “Vì công nhân viên làm việc với công ty trong một thời gian dài cho nên họ thường kiên trì giữ vững quan điểm của họ. Lý tưởng của công ty không hề thay đổi. Khi tôi rời công ty để nghỉ, triết lý sống của công ty vẫn tiếp tục tồn tại.” Triết lý DN góp phần tạo nên VHDN, là yếu tố có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy và bảo tồn nền văn hoá này; qua đó, nó góp phần tạo nên một nguồn nội lực mạnh mẽ từ DN. - Triết lý DN là công cụ định hướng và quản lý chiến lược của DN. Như trên đã nói triết lý DN sẽ là kim chỉ nam trong mọi hoạt động của DN. Môi trường kinh doanh của các DN vốn phức tạp và biến đổi không ngừng. Để tồn tại được, DN cần có tính mềm dẻo, linh hoạt và hơn thế nữa, muốn phát triển được lâu dài, nó cần thêm năng lực chủ động kinh doanh với tính khôn ngoan, sáng suốt. Triết lý DN có vai trò định hướng, là công cụ để hướng dẫn cách thức kinh doanh phù hợp với văn hoá của DN. Nó được các nhà quản lý Nhật Bản coi là một nguồn tài sản vô hình nhưng lại có những tác dụng “cực kỳ to lớn”. Còn nhà khoa học Mỹ, Robert Shook thì cho rằng: “Một triết lý kiên định, vững vàng cuối cùng sẽ quyết định tính vĩ đại của một công ty”. Đối với tầng lớp cán bộ quản trị, triết lý DN là một văn bản pháp lý và cơ sở văn hoá để họ có thể đưa ra các quyết định quản lý quan trọng, có tính Đặng Thị Loan 17 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp chiến lược, trong những tình huống mà sự phân tích kinh tế lỗ lãi vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Vì vậy, trong các công ty xuất sắc của Mỹ như IBM, HP, Intel .các nhà quản trị đều có thói quen đối chiếu triết lý DN với các dự định hành động cũng như các kế hoạch chiến lược trong giai đoạn xây dựng. Họ nhận thức được rằng nếu làm trái với sứ mệnh và các giá trị của công ty thì kế hoạch sẽ bị thất bại và họ sẽ bị xử lý kỷ luật rất nặng. Vai trò của triết lý DN có thể so sánh với bất kỳ một nguồn lực nào khác của DN như vốn, tài sản hoặc công nghệ. Nó chính là một hệ thống các nguyên tắc tạo nên cái “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của doanh nghiệp. Nếu thiếu một triết lý DN có giá trị thì chẳng những tương lai lâu dài của DN có độ bất định cao mà ngay trong việc lập kế hoạch chiến lược và dự án kinh doanh của nó cũng rất khó khăn vì thiếu một quan điểm chung về phát triển giữa các tầng lớp, bộ phận của tổ chức DN. Đối với công ty Honda thì phương pháp kinh doanh của công ty mà triết lý công ty là cốt lõi của nó “có dính dáng sâu đậm tới sự thành công của công ty hơn bất cứ tiềm lực kỹ thuật hay kinh tế nào” [1,Tr.239] - Triết lý DN làm một phương tiện để giáo dục và phát triển nguồn nhân lực của DN Công tác giáo dục - đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có vai trò quyết định sự thành hay bại của DN. Và vấn đề đầu tiên mà các cán bộ, công nhân viên mới phải học là sự hoà nhập của họ với môi trường văn hoá của công ty. Triết lý DN là bài học thứ nhất đối với mọi thành viên. Triết lý DN - nếu được tổ chức học một cách trang trọng và đúng mức - sẽ truyền cái lý tưởng và các giá trị cao cả của một cộng đồng tới từng thành viên, tạo ra không chỉ sự di truyền văn hoá trong DN mà còn đem lại sứ mệnh Đặng Thị Loan 18 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp và các chuẩn mực hành vi chung cho mỗi nhân viên, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Sự tôn trọng các giá trị chung và hành động phù hợp với các chuẩn mực hành vi trong văn bản triết lý sẽ giúp nhân viên nuôi dưỡng lòng tự tin và tinh thần trung thành với sự nghiệp của công ty - nơi mà phẩm giá và sự nghiệp của họ được đảm bảo. Triết lý DN có tác dụng bảo vệ nhân viên, chống lại thói tư thù và các hành vi ác ý (nếu có) của những người quản lý họ. Người quản lý nào lạm dụng quyền lực để đối xử với nhân viên một cách bất công, trái với triết lý DN thì hành vi “chơi xấu”đó sẽ bị cấp quản lý cao hơn trừng phạt. Phát triển nguồn nhân lực của DN liên quan đến công tác tuyển dụng, đào tạo, tổ chức và sử dụng, đãi ngộ và thúc đẩy .đội ngũ của nó. Nếu đặt mục tiêu xây dựng một nguồn lực thống nhất, phát huy các yếu tố nhân văn của nguồn nhân lực trung tâm này để làm chủ thể cho phương thức phát triển bền vững của DN thì các công việc trên cần được định nghĩa bằng một triết lý chung. 3. Những quan niệm chung (niềm tin, nhận thức, suy nghĩ và tình cảm) có tính vô thức, mặc nhiên được công nhận trong doanh nghiệp Trong bất cứ cấp độ văn hoá nào (văn hoá xã hội, văn hoá nghề nghiệp, VHDN .) cũng đều có các quan niệm chung, được hình thành và tồn tại trong một thời gian dài, chúng ăn sâu vào tâm lý của hầu hết các thành viên trong nền văn hoá đó và trở thành điều mặc nhiên được công nhận. Chính vì vậy, rất khó có thể thay đổi những quan niệm chung của một nền văn hoá. Lấy ví dụ, văn hoá Á Đông nói chung và văn hoá Việt Nam nói riêng có quan niệm truyền thống hàng chục thế kỉ nay là: nhiệm vụ quan trọng nhất của người phụ nữ là chăm lo cho gia đình còn công việc ngoài xã hội là thứ yếu. Trong khi Đặng Thị Loan 19 Nhật 3 - K41F - KTNT
    Khóa luận tốt nghiệp đó văn hoá phương Tây lại quan niệm: người phụ nữ có quyền tự do cá nhân và không chịu sự ràng buộc quá khắt khe vào lễ giáo truyền thống. Nếu những quan niệm chung hiển hiện mạnh mẽ trong một tổ chức, tức là nó đã ăn sâu vào tâm lý của mọi thành viên, thì các thành viên sẽ khó có thể chấp nhận được hành vi đi ngược lại những quan niệm đó. Lấy ví dụ, nếu trong một công ty của Mỹ, các thành viên có quan niệm chung là tự do cá nhân được đặt lên hàng đầu thì việc hy sinh bản thân mình vì công ty là điều thật khó có thể xảy ra. Tuy nhiên, trong các công ty Nhật Bản, với quan niệm chung phổ biến là “công ty là gia đình”, “đời sống cá nhân gắn bó chặt chẽ với công việc” thì một cá nhân hy sinh bản thân (thậm chí cả hạnh phúc gia đình) vì công ty là điều dễ hiểu và được đánh giá rất cao. Nhà lãnh đạo cần phải nhận thức được: Các quan niệm chung của một tổ chức, với đặc tính là rất khó thay đổi, có thể trở thành hệ thống rào chắn tạo nên sự bền vững cho tổ chức đó. Mặt khác, việc thay đổi một nền VHDN bằng cách thay đổi các quan niệm là rất khó khăn, mất thời gian và gây tâm lý bất an, lo lắng cho nhân viên. Tuy nhiên, nếu nhà lãnh đạo có đủ khả năng để thay đổi những quan niệm chung đó thì sẽ tạo ra được những thay đổi lớn trong toàn DN. Như vậy, chính những quan niệm tồn tại trong một tổ chức quyết định hành vi của các thành viên trong tổ chức đó. Để hiểu rõ nền văn hoá của một DN chúng ta cần phải tiếp cận được với những quan niệm của nền văn hoá đó và quá trình hình thành của chúng. Bản chất của nền văn hoá nằm ở những quan niệm chung của nó. Nếu nhận biết văn hoá của một DN ở cấp độ một và hai, chúng ta có thể hiểu được nền văn hoá đó ở bề nổi của nó. Tức là có khả năng suy đoán mọi thành viên của DN sẽ “nói gì” trong một tình huống nào đó chứ không biết được họ sẽ Đặng Thị Loan 20 Nhật 3 - K41F - KTNT
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...