Tiểu Luận Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện na

Thảo luận trong 'TT Hồ Chí Minh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. PHẦN MỞ ĐẦU

    1/ Lý do chọn đề tài :

    Hiện nay các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển ,có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới. Cuộc đấu tranh vì độc lập và giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều hình thức. Sự phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng ngày càng rõ nét ở các quốc gia trong đố có Việt Nam. Trong khi đó tài nguyên thiên nhiên đã được khai thác đến mức cạn kiệt, môi trường bị hủy hoại, các căn bệnh hiểm nghèo đang lan rộng, khoảng cách giữa các nước phát triển và đang phát triển một xa hơn, việc buôn bán vũ khí chưa được ngăn chặn, xu hướng chạy đua vũ trang vẫn tiếp tục .
    Cuộc đấu tranh của các nước phát triển trong đó có Việt Nam giờ đây không chỉ nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền mà còn ở sự khẳng định bản sắc dân tộc và việc lựa chọn con đường phát triển cho riêng mình. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay thúc đẩy nhanh chóng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở mỗi nước cũng như trên thế giới. Song song với quá trình phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và công nghệ ta đang chứng kiến nhiều vấn đề mang tính toàn cầu. Hòa bình ổn định và hợp tác phát triển ngày càng đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Để hội nhập với quốc tế và khu vực nhất định nước ta phải tự khẳng định mình, phải độc lập tự chủ về kinh tế chính trị. Muốn hòa nhập mà thoát khỏi tình trạng “hòa tan”, muốn bảo vệ được thành quả cách mạng của mình phải khẳng định tính độc lập tự chủ . Những nhược điểm, khuyết điểm của mô hình kinh tế cũ đã cản trở lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội nước nhà. Cuộc sống đòi hỏi phải cấp thiết thay đổi mô hình cũ bằng mô hình phù hợp để đưa đất nước phát triển. Vì vậy đổi mới trở thành vấn đề sống còn của dân tộc ta hiện nay. Tuy vậy, trong quá trình đổi mới hiện nay chúng ta đang đứng trước những thử thách lớn cần khắc phục. Những thử thách đó nảy sinh từ thực trạng nền kinh tế nước ta còn non kém, từ tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới.Trong lúc này việc đề cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ngày càng trở nên cấp thiết và quan trọng có tính chất quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu mới về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
    Từ những lí do khách quan và chủ quan trên tôi chọn đề tài : “ Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đỏi mới hiện nay”.
    2/ Mục đích nghiên cứu :

    Thấy được sự cần thiết trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
    Giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới nước nhà.
    3/ Yêu cầu :

    Phân tích làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
    Đánh giá một cách khách quan việc vận dụng tư tưởng này của Đảng và nhà nước ta trong việc vận dụng tư tưởng này.
    Xem xét các vấn đề trên phương diện toàn diện nhất có thể.
    4/ Đối tượng phạm vi nghiên cứu :

    Đối tượng : Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
    Phạm vi nghiên cứu :
    Xem xét sự vận dụng tư tưởng này vào công cuộc đổi mới về kinh tế -chính trị trên lãnh thổ Việt Nam.
    Nghiên cứu sự vận dụng tư tưởng này trong khoảng thòi gian 1986-nay.
    5/ Những đóng góp chính của đề tài :

    Bản thân : Có cái nhìn sâu hơn về những giá trị thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay.
    Trân trọng và yêu quí hơn đối với tư tưởng của Người.
    Bạn đọc : Cung cấp một cái nhìn thực về sự vận dụng tư tưởng này trong công cuộc đổi mới hiện nay.
    Góp phần giúp người đọc khẳng định được giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .
    6/ Phương pháp nghiên cứu :

    Phương pháp chung : Thực tiễn, luận biện chứng .
    Phương pháp riêng : Tổng hợp liên hệ, so sánh, sưu tầm tài liệu (sách, báo), thu tập xử lí thông tin .
    B. NỘI DUNG

    I/ Cơ sở lí luận và thực tiễn :

    1/ Cơ sở lí luận :

    1.1/ Các quan điểm của Hồ Chí minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội :

    Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức bót lột và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Có tiến lên xã hội chủ nghĩa thì dân mình mỗi ngày được ấm no tổ quốc mỗi ngày giàu mạnh thêm”[1]. Tách độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội hoặc hướng độc lập dân tộc theo hướng khác, con đường khác,giải quyết các vấn đề trên lập trường khác, phi xã hội chủ nghĩa đều là sự phản bội lại lịch sử dân tộc, điều đó sẽ làm cho dân tộc bị lệ thuộc phụ thuộc vào lực lượng đế quốc, tư bản trái với xu thế phát triển của thời đại.
    Theo Hồ Chí Minh thì độc lập dân tộc là để đi đến ấm no, tự do, hạnh phúc “đất nước độc lập thì dân lao động phải làm chủ ; nước độc lập rồi thì nhân dân được hưởng hạnh phúc, tự do; nếu nước độc lập mà dân không hưởng được hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng gì”[2]. Muốn đi đến triệt để và có cuộc sống tự do hạnh phúc thực sự cho dân thì phải đi lên xã hội chủ nghĩa .
    Độc lập dân tộc luôn gắn liền với chủ nghĩa xã hội, có độc lập dân tộc thì mới xây dựng chủ nghĩa xã hội; đồng thời chỉ có thể đưa đất nước phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội thì và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì nền độc lập dân tộc mới đảm bảo vững chắc và triệt để. Độc lập dân tộc là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là những gì tôi hiểu” [3].
    Hồ Chí Minh quan niệm về chủ nghĩa xã hội ở nước ta bằng cách nhấn mạnh mục tiêu vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, “làm sao cho dân giàu nước mạnh”[4], là “làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng ”, “là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân” [5], là làm cho mọi người được ăn no, mặt ấm ,được sung sướng, tự do, là “nước ta hoàn toàn độc lập dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[6]. Như “ham muốn tột bậc”[7], mà Người trả lời các nhà báo.
    Khi trả lời câu hỏi “Chủ nghĩa xã hội là gì?”, Hồ Chí Minh chú ý trước hết đến yếu tố kinh tế, yếu tố đời sống: “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng ấm no và sống một cuộc đời hạnh phúc” [8]. Mục đích của Chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là : “không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”[9], bởi vì “dân lấy ăn làm gốc, có thực mới vực được đạo”[10], “Tục ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời .Vì vậychính sách của đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi [11]; “Đảng ta đấu tranh để làm gì? -Là muốn cho tất cả mọi người được ăn no mặt ấm, được tự do. Mỗi một đảng viên đấu tranh để làm gì ?-Cũng là để mọi người được ăn no mặc ấm,được tự do”[12], .
    Như vậy, nói đến chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh trước hết đến yếu tố kinh tế, đến việc nâng cao đời sống của nhân dân, đến yêu cầu làm sao cho mọi người dân đều được áo ấm, cơm no, có nhà ở tử tế, được học hành. Hồ Chí Minh : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”[13]. Người phải giải thích rõ hơn điều ấy khi so sánh vai trò của yếu tố kinh tế và yếu tố văn hóa trong sự nghiệp xây dựngchủ nghĩa xã hội: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa.Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: “Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”[14]. Đó là lí do vì sao khi nói đến chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh trước hết đến các yếu tố kinh tế. Sự nhấn là hoàn toàn cần thiết vì cho đến nay lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế-xã hội khác nhau, trong đó hình thái kinh tế - xã hội xuất hiện sau bao giờ cũng ở nấc thang phát triển cao hơn về kinh tế, chính trị , văn hóa, xã hội,v.v. so với hình thái kinh tế - xã hội xuất hiện trước: xã hội phong kiến phải cao hơn xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội tư bản phải cao hơn xã hội phong kiến . Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
    1.2/ Quan điểm của Đảng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

    Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định “cách mạng Việt Nam là một quá trình cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và trong quá trình cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta từ khi ra đời đến nay vẫn luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta” [15]. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng : “Kết hợp chặt chẽ ngay từ buổi đầu đổi mới kinh tế là đỏi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm ,đòng thời từng bước đổi mới chính trị” là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của toàn dân.
    Đảng ta kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng trong thời kì đổi mới hiện nay là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”. Dân giàu ở đây trước hết là giàu có về kinh tế, có mức sống vật chất.Vì vậy sự nghiệp đổi mới được bắt đầu tự nhận thức, đổi mới tư duy, trước hết là tư duy đức và tinh thần của xã hội. Nếu chỉ chạy theo tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, truyền thống và đạo lý dân tộc, sẽ dẫn tới sự khủng hoảng tinh thần của xã hội. Vì vậy, trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển”. Điều này hoàn toàn thống nhất với tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người khẳng định: Một tộc dốt là một dân tộc yếu; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
    Mục tiêu “dân giàu” phải gắn liền với nước mạnh. Không thể tách rời lợi ích của “dân” và của “nước”. Nước không mạnh, tiềm lực kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội không mạnh thì sự giàu có của nhân dân cũng không có gì đảm bảo.Vì vậy sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng của nhân dân và quốc gia là sự thống nhất biện chứng không thể tách rời hoặc đối lập nhau. Đồng thời, “dân giàu”, “nước mạnh” phải gắn liến với xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn đề cân bằng xã hội, vấn đề nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên ngang với trình độ phát triển chung của cộng đồng quốc tế là một trong những mục tiêu xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước, khát vọng của Hồ Chí Minh.
    Tuy nhiên khái niệm “dân giàu” ở đây bao hàm cả nội dung giàu có về chất giàu có về tinh thần, phải vừa nâng cao mức sống về kinh tề đồng thời phải phát triển về trí tuệ, tình cảm, lối sống, đạo Đảng ta nêu rõ : “Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân lao động làm chủ có nền kinh tế phát triển cao,dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng ra khỏi áp bức, bất công có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết , tương trợ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ ; Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do dân vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”.[16]
    Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng có nêu : “nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội- ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc”[17]. Thực tiễn trong công cuộc đổi mới đất nước Đảng ta một lần nữa khẳng định : “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cho dân tộc ta có độc lập, tự do thực sự, đất nước phát triển phồn vinh, nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc”[18].
    2/ Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

    Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức,có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng nhất của đất nước.Việc thảo luận, quyết định kế hoạch kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án công trình trọng điểm của quốc gia có chất lượng và thực chất hơn. Uỷ ban thường vụ quốc hội, hội đồng dân tộc, các ủy ban của quốc hội, hội đồng dân tộc, các ủy ban của quốc hội có nhiều cải tiến về nội dung, phương pháp công tác; đề cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.Cơ cấu tổ chức, bộ máy của chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm đầu mối theo tổ chức các bộ quản lí đa ngành, đa lĩnh vực. Quản lí, điều hành của chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lí vĩ mô và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.
    Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp có một số đổi mới.Việc tăng cường thẩm quyền cho tòa án cấp huyện, nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, đề cao vai trò của luật sư trong tố tụng được thực hiện bước đầu có kết quả. Việc thực hiện các thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế được tình trạng điều tra, truy tố, xét xử oan sai hay bỏ lọt tội phạm. Chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên.
    Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đựơc chỉ đạo tích cực đạt một số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
    II/ Thực trạng, giải pháp

    1/ Thực trạng:

    1.1/ Những thành tựu trong quá trình xây dựng đổi mới đất nước

    Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhân dân ta đã gặt hái nhiều thành công trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, có công rất lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại hội VI của Đảng tháng 12/1986 đã quyết định thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, nhất là đổi mới về mặt tư duy kinh tế. Đường lối đổi mới của Đảng đã tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành sản xuất và dịch vụ.
    Bình quân 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đạt 13,7%, vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%) .Trong 5 năm 1996-2000, sản xuất công nghiệp nước ta tiếp tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp độ cao. Nếu so với năm 1990, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5 lần, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 14,3%. 6 tháng đầu năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 205,3 nghìn tỷ đồng, tăng 15,6% so với cùng kỳ năm 2004, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,7%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì mức tăng cao 24,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 13,9%.
    Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả chất lượng và số lượng, đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng trong nước và tham gia xuất khẩu.Tính đến năm 2005 đã có hơn 5.000 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 45 tỷ USD và tạo ra hàng vạn công ăn việc làm.
    Ngoài giá trị về kinh tế, công nghiệp FDI còn tạo thêm hàng triệu việc làm, góp phần bổ sung và hoàn thiện các mô hình quản lý và tổ chức sản xuất mới phù hợp với cơ chế thị trường ở Việt Nam. Đến nay, cả nước có 122 KCN được cấp giấy phép họat động.
    Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông nghiệp mà nội dung cơ bản là khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đã đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Thành tựu nổi bật và to lớn nhất của nông nghiệp trong 15 năm đổi mới là đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới liên tục từ năm 1989 đến nay. Như vậy, sau 15 năm, sản lượng lương thực có hạt đã tăng thêm 19,4 triệu tấn, bình quân mỗi năm tăng thêm 1,29 triệu tấn, đưa nước ta vào hàng các nước đứng đầu về xuất khẩu gạo trên thế giới.
    Tính tới tháng 7/2000, Việt Nam ký Hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có Mỹ, đưa tổng số nước có quan hệ ngoại thương với nước ta từ 50 nước năm 1990 lên 170 nước năm 2000. Do kinh tế đạt mức tăng trưởng cao và liên tục nhiều năm liền nên đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của dân cư được cải thiện rõ rệt.
    Sự nghiệp giáo dục đạt nhiều thành tựu. Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên biết đọc, biết viết đã tăng từ 88% năm 1989 lên 91% năm 1999. Năm 2000 nước ta đã hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Sự nghiệp y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Hệ thống y tế đã được phát triển từ tuyến cơ sở tới trung ương với nhiều loại hình dịch vụ y tế đã tạo điều kiện cho người dân được lựa chọn các dịch vụ y tế phù hợp. Năm 1990, tính bình quân 1 vạn dân có 3,5 bác sĩ; đến năm 2004 là 6,1. Tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi năm 1990 từ 51,5%; đến năm 2004 còn 26,7%. Tỷ lệ tử vong của trẻ em đã giảm xuống bằng với mức phổ biến ở những nước có thu nhập đầu người cao gấp 2-3 lần Việt Nam. Năm 2003 tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi chỉ còn 26%. Tuổi thọ bình quân tăng từ 64 tuổi năm 1990 lên 68 tuổi năm 2000.
    Cùng với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, Việt Nam đã đạt được những kết quả xuất sắc trong xóa đói giảm nghèo. Tính theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo đã giảm từ trên 70% năm 1990 xuống còn 32% năm 2000 và 28,9% vào năm 2001-2002. Như vậy so với năm 1990, năm 2000 Việt Nam đã giảm 1/2 tỷ lệ nghèo và về điều này nước ta đã đạt được mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ do Quốc tế đặt ra là giảm một nửa tỷ lệ đói nghèo trong giai đoạn 1990-2015.
    Hiện nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 176 quốc gia, quan hệ kinh tế thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó khoảng 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước ta.Năm 2006, tổng sản phẩm trong nước (GDP), theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với cùng kỳ năm trước.Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát triển. Tính từ đầu năm đến 18/12/2006, cả nước có 797 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 7,57 tỷ USD và tính đến 18/12/2006 đạt 9,9 tỷ USD và như vậy cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006.
    Đời sống dân cư nhìn chung ổn định. Đời sống của cán bộ, viên chức và người hưởng lương đã được cải thiện đáng kể nhờ tăng lương theo các Nghị định của Chính phủ. Đời sống đại đa số nông dân ổn định và từng bước được cải thiện do sản xuất phát triển và giá nhiều loại nông sản, thực phẩm tăng. Tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và nhiều địa phương tiếp tục giảm, tình trạng thiếu đói giáp hạt giảm đáng kể so với năm 2005.
    Bước vào năm 2007, thế và lực của nền kinh tế nước ta cũng như những kinh nghiệm tổ chức, quản lý và điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều đã được tăng lên đáng kể. Việc nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã tạo thêm cơ hội để nền kinh tế nước ta hội nhập sâu hơn và rộng hơn vào kinh tế thế giới.Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2007 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 8,48% .Năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực.
    Năm 2007, tổng sản phẩm trong nước tăng 8,48, nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp tăng nhanh; tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm từ 15,47% năm 2006 xuống còn 14,75% năm 2007. Các lĩnh vực xã hội khác như giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá thông tin, thể dục thể thao cũng có những tiến bộ lớn, quan trọng.
    Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, khó lường.Năm 2008, GDP theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so với năm 2007, trong bối cảnh khó khăn gay gắt thì đây là một cố gắng rất lớn.
    Để đảm bảo an sinh xã hội, ngân sách Nhà nước đã chi 42,3 nghìn tỷ đồng, gồm các khoản chính sau: Chi trợ giá dầu hoả cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng chưa có điện thắp sáng; trợ giá dầu cho ngư dân đánh bắt xa bờ; chi bảo trợ xã hội; mua thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cận nghèo; cấp học bổng cho học sinh dân tộc nội trú, bán trú; điều chỉnh tăng 15% mức lương hưu, trợ cấp đối với người về hưu, người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, người có công với cách mạng; hỗ trợ đồng bào bị thiên tai lũ lụt; thực hiện miễn giảm các khoản đóng góp của người dân; miễn thủy lợi phí, không thu phí dự thi, dự tuyển vào các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông; miễn lệ phí trước bạ đối với nhà ở, đất ở của các hộ nghèo; thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi đối với đồng bào thiểu số đặc biệt khó khăn, học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Nhờ có các chính sách an sinh xã hội như trên nên tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước năm 2008 ước tính 13,5%, thấp hơn với mức 14,8% của năm 2007.
    Trong năm 2009, kinh tế- xã hội nước ta tuy bị ảnh hưởng của suy thoái kinh tế, tài chính thế giới nhưng với tinh thần chủ động sáng tạo của các doanh nghiệp, cơ sở kinh tế và nhờ việc thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp đúng đắn và kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ nên đang phát triển theo hướng tích cực và đang có dấu hiệu phục hồi. Sản xuất công nghiệp từng bước ổn định và tiếp tục tăng, nhiều sản phẩm quan trọng vẫn giữ được mức tăng cao. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều tăng về lượng. Chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý. Đời sống nhân dân tiếp tục được quan tâm và cải thiện.
    Tổng sản những trong nước (GDP) năm 2010 so với năm 2000 theo đánh giá thực tế gấp 3,26 lần;thu nhập ngân sách, kim nghạch xuất khẩu gấp 5 lần; tuổi thọ bình quân lên 72,8 .
    1.2/ Những hạn chế trong quá trình xây dựng đổi mới đất nước:

    Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta còn những khuyết điểm yếu kém: tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, cơ cấu chyển dịch kinh tế còn chậm. Cơ chế, chính sách văn hóa xã hội còn đổi mới; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số hạn chế.Về kinh tế Việt Nam, vẫn là một nước thuộc nhóm nghèo, cơ cấu kinh tế chậm chuyển đổi, trình độ phát triển kinh tế, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều mặt lạc hậu, chưa phát triển nền kinh tế sản xuất nhỏ. Do sự lạc hậu về kinh nghiệm và sự yếu kém về lực lượng lao động nên năng lực cạnh tranh nền kinh tế nước ta còn yếu kém, năng suất lao động thấp bằng 30% mức trung bình thế giới. Trình độ phát triển kinh tế nói chung chưa cao, nếu tính theo chỉ tiêu GNP bình quân đầu người, thì Việt Nam xếp thứ 156/ tổng số 173 nước.
    Trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam còn lạc hậu. Tỷ lệ tăng dân số còn cao, đặc biệt ở nông thôn dẫn đến lao động dư thừa khá lớn. Số người thiếu việc làm nông thôn từ thành thị đến nông thôn ở nước ta ước tính từ 7-8 triệu người. Các ngành y tế và giáo được ở nước ta chưa được quan tâm và đầu tư thích đáng, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập trong nội dung,phương thức giáo dục.
    1.3/ Các nguy cơ thách thách đặt ra cho nước ta trong giai đoạn hiện nay

    Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với những nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt chúng ta phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt, nhất là về vốn và công nghệ.
    Nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có quản lí cua nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có mặt tích cực là thúc đẩy và giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội, kích thích sản xuất và lưu thông,đổi mới công nghệ và tăng năng xuất lao động Song, dễ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực như phân hóa già nghèo, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền làm nảy sinh những tệ nạn xã hội, gây bất ổn về kinh tế -xã hội, dẫn đến nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
    Nạn tham nhũng và tệ tham liêu mà sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là giặc “nội xâm”, là nguy cơ rất khó khắc phục vì nó xuất hiện, tồn tại tác đọng từ ngay trong nội bộ Đảng, Nhà nước, từ đội ngũ cán bộ, Đảng viên hình thành một cơ chế ngầm trong xử lí các mối quan hệ xã hội, làm suy yếu bộ máy Đảng, Nhà nước và chế độ .
    Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ các Đảng Cộng Sản. Mặc khác, cuộc chạy đua vũ trang, tranh giành ảnh hưởng ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, cũng như tình hình biển Đông còn diễn biến phức tạp, nguy cơ xung đột và chiến tranh cục bộ vẫn có khả năng xảy ra
    2. Đề xuất những giải pháp :

    2.1/ Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong thời đại hiện nay

    Đảng và nhân ta phải luôn xác định lý tưởng và mục tiêu phấn đấu trước hết là độc lập gắn liền với chủ nghĩa chủ nghĩa. Bởi toàn bộ lịch sử phát triển của của cách mạng nước ta trong hơn bảy thập kỉ qua đã khẳng định: không gắn sự nghiệp giải phóng giành độc lập dân tộc với mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội thì không huy động được lực lượng to lớn nhất trong dân tộc các giai cấp, các tầng lớp nhân dân lao động ngay trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc. Song có độc lập dân tộc rồi mà không định hướng lên chủ nghĩa xã hội lại theo con đường tư bản chủ nghĩa thì có nghĩa là để các thành quả cách mạng mà biết bao thế hệ Việt Nam giành được bằng biết bao nhiêu xương máu và mồ hôi cả mình rơi vào các lực lượng khác có lợi ích đối lập với nhân dân lao động và cả cả dân tộc.
    Chúng ta phải quan niệm rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta bởi vậy trong quá trình đổi mới chúng ta phải giữ vững tính độc lập, tự chủ năng động sáng tạo tìm ra những hình thức, phương pháp, bước đi phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn nước ta nhưng vẫn định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Có những quan điểm cho rằng sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc chưa vội tiến lên chủ nghĩa xã hội mà cần thực hiện chế độ dân chủ nhân dân. Và hiện nay, không nên kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà hãy quay lại thực hiện chế độ dân chủ nhân dân. Một số người cho rằng đổi mới đất nước theo kinh tế thị trường là đưa đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa.
    Thực chất các quan điểm trên đều nhằm mục đích phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta cần nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực phản động, cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc, đồng thời phê phán, khắc phục những biểu hiện nhận thức không đúng, dao động về con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong một bộ phận nhân dân ta.
    Cần khẳng định rằng, công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để tạo những điều kiện, tiền đề cho chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đường lối đổi mới nhưng vẫn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, không tạo ra một thời kỳ “trung gian”, “thời kỳ quá độ từ độc lập dân tộc lên chủ nghĩa xã hội”
    Trong sự biến động phức tạp của thế giới và Việt Nam, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc cả các dân tộc và quốc gia trên thế giới.Nước ta phải giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, quan niệm về độc lập dân tộc của Đảng ta phải là quan niệm mở và động, luôn kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần độc lập tự chủ kết hợp chặt chẽ với tiếp thu sức mạnh của thời đại để xây dựng và phát triển đất nước. Độc lập dân tộc trong thời đại ngày nay hàm chứa những nội dung mới, không phải là sự khép kín, biệt lập với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của cộng đồng quốc tế. Các dân tộc,các quốc gia muốn phát triển được đều dựa vào nguồn lực nội sinh của dân tộc, kết hợp với việc thu nhập nguồn lực ngoại sinh cả thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp. Quan niệm về độc lập, tự do cả dân tộc cần phải được chú ý toàn diện từ lĩnh vực độc lập, tự do về lãnh thổ, về chủ quyền an ninh quốc gia đến độc lập, tự do về chính trị, kinh tế, văn hóa và lối sống, đạo đức xã hội.
    2.2/ Kiên định phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa:

    Chúng ta cần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ nhân dân, đồng thời chống khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích. Dứt khoát bác bỏ mọi âm mưu lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền” nhằm gây rối về chính trị, chống phá chế độ hoặc can thiệp vào nội bộ nước ta. Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc phát huy dân chủ, động viên tối đa sức mạnh của toàn thể dân tộc vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Chúng ta phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi việc xây dựng là nhiệm vụ then chốt mỗi Đảng viên trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng nói chung và mỗi Đảng viên nói riêng, Đảng viên phải xem xét những sai lầm và khuyết điểm của mình đổi mới và chỉnh đốn Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
    Phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, gian khổ, đầy khó khăn và thử thách, vì vậy cần phải tiến hành dần dần, từng bước một, thận trọng và vững chắc. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta phải tập trung vào giải quyết nhiệm vụ kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế, tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, giữ vững ổn định chính trị và bảo đảm an ninh quốc gia, chống các nguy cơ gây mất an ninh quốc gia, chống các nguy cơ gây mất ổn định và cản trở sự nghiệp đổi mới. Tinh thần độc lập, sáng tạo, tự chủ trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của cộng đồng thế giới và kinh nghiệm đã trải qua là cơ sở để Đảng ta đề ra những đường lối, chủ trương sát hợp với đòi hỏi của thực tế khách quan về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Thực hiện nghiêm túc những phương hướng nội dung và nhiệm vụ của các kì Đại hội của Đảng với những mục tiêu đề ra bởi đó là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển liên tục và bền vững của đất nước trong sự tác động mạnh mẽ của các xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa, phù hợp với đặc điểm phát triển của dân tộc.
    2.3/ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực con người

    Bởi như ta đã biết con người là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng, động lực của xã hội chủ nghĩa và hơn nữa là động lực quan trọng nhất. Mọi việc thành công hay thất bại hay không đều là ở sự quyết định hành động của con người. Đặt biệt trong thời đại hiện nay xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa được chế định bởi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tấn công vào tất cả quốc gia, các dân tộc trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Những thời cơ và thách thức đối với nước ta tồn tại song hành với qui mô và tính chất phức tạp khác nhau. Là một nước đang phát triển ta có thể tận dụng tận dụng lợi thế của một nước đi sau, hiện đại hóa nguồn nhân lực và khoa học công nghệ để tiến lên phát triển bền vững. Phải tập trung chú trọng để phát hiện, bồi dưỡng người có tài có đức tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng qua đó ta có thể “đi tắt, đón đầu” với công cuộc xây dựng nước nhà. Bởi muốn xây dựng chủ nghĩa trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Điều này được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng như vậy là một nấc thang xây dựng xã hội chủ nghĩa.
    2.4/ Tuyên truyền vận động để đưa tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đến với mọi người dân Việt Nam

    Để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa thì Đảng phải tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh đến với mọi người dân. Bởi như Hồ Chí minh nói : “ Muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội cần phải có người Xã hội chủ nghĩa, muốn có người xã hội chủ nghĩa phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa” (toàn tập, tr. 296). Tư tưởng đó có được là kết quả của một quá trình được nghe, được hiểu, được làm bằng những việc làm cụ thể. Khi tư tưởng của mọi người dân đều thông suốt thì mọi việc trở nên dễ dàng, đồng thời lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội được nâng lên gấp bội.
    Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh : “ Đặc điểm to nhất của ta trong thời kì quá độ là từ một nước công nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này chi phối các đặc điểm khác và tác động sâu sắc tới việc lựa chọn bước đi và biện pháp thích hợp. Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam góp phần mở ra một trang mới cho công cuộc đổi mới tiếp tục ở Việt Nam, đồng thời góp phần vào sự tiến bộ trong thế giới ngày nay. Như bà Mácxêla Lômbácđô giám đốc trung tâm nghiên cứu triết học, chính trị xã hội Mêhicô nói: “ Tên tuổi Hồ Chí Minh được biết đến và kính trọng trên khắp thế giới và tên Người- Hồ Chí Minh được kỉ niệm như một trong những vĩ nhân mà lịch sử loài người đã sinh ra. Cũng như Abu Camara, bộ trưởng phụ trách vùng bờ biển Ghinê, Ủy viên Hội đồng Quân sự tối cao phục hưng dân tộc Ghinê khẳng định: “ Hồ Chí Minh, mà với sự cho phép của các bạn, chúng tôi gọi là Bác Hồ, là biểu tượng của cuộc đấ tranh chống sự thống trị của nước ngoài và của công cuộc xây dựng một đất nước thống nhất và phồn vinh”.

    C. KẾT LUẬN


    Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vấn đề mang tính thời sự lâu dài nên trong quá trình nghiên cứu, chúng ta cần tìm hiểu một cách sâu sắc và nghiên cứu kỹ hơn về những ưu khuyết, hạn chế trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong tình hình hiện nay để có cái nhìn sâu sắc hơn về sự cần thiết của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới này.
    Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu cơ sở lí luận và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa trong công cuộc đổỉ mới hiện nay tới đây rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung thêm của bạn đọc.
    Cần phải khẳng định lại rằng: hiện nay và trong những năm tới, thời cuộc có thể có nhiều đổi thay, nhưng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mãi mãi là mục tiêu, con đường duy nhất đúng đắn, là tất yếu lịch sử của dân tộc ta trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.


    D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


    [1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 9,tr. 173
    [2]Hồ Chí Minh: sđd, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 4,tr. 56
    [3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 4,tr. 161
    [4]Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8,tr. 226
    [5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10,tr. 556
    [6] Hồ Chí Minh: sđd, tr. 172
    [7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 4,tr. 161
    [8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10,tr. 31
    [9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10,tr. 271
    [10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8,tr. 411
    [11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t. 7,tr. 572
    [12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8,tr. 396
    [13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8,tr. 226
    [14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 10,tr. 59
    [15] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ VIII, tr. 70-75
    [16] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đai biểu toàn quốc lần thứ X , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 68
    [17] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 65
    [18] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 186

    MỤC LỤC

    A. PHẦN MỞ ĐẦU 1
    1/ Lý do chọn đề tài : 1
    2/ Mục đích nghiên cứu : 1
    3/ Yêu cầu : 2
    4/ Đối tượng phạm vi nghiên cứu : 2
    5/ Những đóng góp chính của đề tài : 2
    6/ Phương pháp nghiên cứu : 2
    B. NỘI DUNG 2
    I/ Cơ sở lí luận và thực tiễn : 2
    1/ Cơ sở lí luận : 2
    1.1/ Các quan điểm của Hồ Chí minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội : 2
    1.2/ Quan điểm của Đảng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội 4
    2/ Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 5
    II/ Thực trạng, giải pháp. 6
    1/ Thực trạng: 6
    1.1/ Những thành tựu trong quá trình xây dựng đổi mới đất nước: 6
    1.2/ Những hạn chế trong quá trình xây dựng đổi mới đất nước: 9
    1.3/ Các nguy cơ thách thách đặt ra cho nước ta trong giai đoạn hiện nay. 9
    2. Đề xuất những giải pháp : 10
    2.1/ Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong thời đại hiện nay. 10
    2.2/ Kiên định phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa: 11
    2.3/ Đầu tư phát triển nguồn nhân lực con người 11
    2.4/ Tuyên truyền vận động để đưa tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đến với mọi người dân Việt Nam 12
    C. KẾT LUẬN 13
    D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...