Luận Văn Vận dụng trong quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở Việt Nam hiện nay.

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vận dụng trong quá trình xây dựng ý thức đạo đức ở VN hiện nay.


    LỜI MỞ ĐẦU

    Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức học đã xuất hiện 26 thế kỉ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.Về bản chất, đạo đức là hành vi của con người trong đời sống hiện thực được nhận xét, đánh giá, thẩm định(ủng hộ hay lên án) qua lăng kính của dư luận xã hội. Sự ý thức về lương tâm, danh dự, lòng tự trọng phản ánh khả năng tự chủ của con người là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản qui định gương mặt đạo đức của con người, cũng là biểu hiện bản chất xã hội của con người.Với ý nghĩa đó, sự phát triển của ý thức đạo đức là nhân tố biểu hiện tiến bộ xã hội. Bởi vậy vai trò của ý thức đạo đức là vô cùng to lớn.
    Có thể thấy rằng,Việt Nam đã và đang trên con đường hội nhập quốc tế thì vấn đề về đạo đức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đạo đức mà cụ thể là ý thức đạo đức giúp Việt Nam bảo vệ được những giá trị truyền thống tốt đẹp, hội nhập với bản sắc văn hoá riêng biệt, độc đáo. Đồng thời nó cũng giúp các doanh nhân, doanh nghiệp Viêt Nam tạo lập uy tín với bạn bè thế giới Nhưng trên thực tế các giá trị đạo đức đó đang bị xem thường, coi nhẹ hay cố ý lãng quên.Vì vậy, việc xây dựng ý thức đạo đức cho mỗi người dân Việt là một nhiệm vụ vô cùng cấp bách. Nhưng việc xây dựng như thế nào cho phù hợp và đạt hiệu quả cao mới là vấn đề khó khăn.Để đưa ra được những phương án cụ thể chúng ta cần phải nghiên cứu ý thức đạo đức bởi nó là cơ sở của mọi hành vi của con người.







    PHẦN 1:VAI TRÒ CỦA Ý THỨC ĐẠO ĐỨC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
    .
    1. Định nghĩa về ý thức đạo đức.
    Hình thái ý thức đạo đức là một trong những hình thái ý thức đạo đức ra đời từ rất sớm, ngay từ xã hội nguyên thuỷ.
    Ở Trung Quốc các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm, được biểu hiện trong quan niệm về đạo và đức của họ.Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi về sau, khái niệm đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
    Ngày nay đạo đức được định nghĩa như sau: đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
    Với tư cách là một bộ phận cấu thành của đạo đức xét theo mối quan hệ giữa ý thức và hành động, ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
    Trong quan hệ giữa người với người đều có những ranh giới của hành vi và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá nhân ích kỉ và tinh thần tập thể.Về mặt giá trị của hành vi đạo đức cũng có ranh giới: lao động là hành vi thiện, ăn bám bóc lột là vô nhân đạo.Ngay cả trong một hành vi thiện mức độ giá trị của nó không phải lúc nào cũng ngang nhau, mà nó cũng có những thang bậc nhất định(cao cả, tốt, được). Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực hành vi và những qui tắc xã hội đặt ra, nó giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác tự nguyện những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc, tình cảm đạo đức con người. Mỗi người khác nhau có những cảm xúc, những tình cảm đạo đức khác nhau, vì thế suy nghĩ và hành động của mỗi người trong từng trường hợp cụ thể là khác nhau. Ở đây quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã hội và đối với người khác là tiền đề của hành vi cá nhân.
    Ý thức đạo đức có tính thời đại, tính dân tộc và tính giai cấp.
    -Tính thời đại:ý thức đạo đức luôn thay đổi từ thời đại này qua thời đại khác. Thí dụ, đạo đức ngày nay thì phải tôn trọng nhân phẩm con người, nhưng vào thời kì chủ nô( 4000 năm trước Công nguyên) người nộ lệ đã bị coi như một “công cụ biết nói” có thể chuyển nhượng, mua bán như một đồ vật trên thị trường. Thời nguyên thuỷ con người chỉ biết săn bắn, hái lượm và ai muốn ở đâu cũng được, nhưng đến thời định canh định cư, phải khẩn hoang sản xuất thì con người cũng gắn liền với mảnh đất canh tác của mình và ý thức phải tôn trọng ruộng đất của kẻ khác cũng xuất hiện.
    -Tính dân tộc: ý thức đạo đức cũng khác nhau từ dân tộc này qua dân tộc khác. Đạo đức qui địnhbởi sự tồn tại xã hội và chịu ảnh hưởng của tổng thể các ý thức xã hội khác nhau như triết học, nghệ thuật tạo thành bản sắc dân tộc cho từng vùng dân cư nên mỗi dân tộc lại có phong tục, đạo đức riêng của mình.Bởi vậy mới có câu châm ngôn nhập gia tuỳ tục.Thí dụ quan hệ đạo đức gia đình ngày nay là một vợ một chồng nhưng vẫn nhiều nơi còn chế độ đa thê.
    -Tính giai cấp: tính giai cấp của đạo đức là sự phản ánh và thể hiện lợi ích của các giai cấp và hệ thống đạo đức áp đặt cho toàn xã hội bao giờ cũng là đạo đức của giai cấp thống trị, mặc dù trong cuộc sống đời thường mỗi giai cấp vẫn ứng xử theo lợi ích trực tiếp của mình.Thí dụ, thời phong kiến quan niện trung quân ái quốc,yêu vua là yêu nước đã trở thành phổ biến, nhưng ở các làng quê “phép vua vẫn thua lệ làng”, người dân vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc truyền thống của mình. Ngoài tính giai cấp, đạo đức vẫn mang tính nhân loại chung.Tính nhân loại của đạo đức ở mức thấp là những qui tắc đơn giản, thông thường, cần thiết để đảm bảo cho trật tự an sinh đời thường. Tính nhân loại ở mức cao biểu hiện ở những giá trị đạo đức tiến bộ tiêu biểu nhất của từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội trong lịch sử.
    Ý thức đạo đức về mặt cấu trúc gồm tri thức đạo đức, tình cảm và ý chí đạo đức.
    2. Vai trò của ý thức đạo đức
    Ý thức đạo đức có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội. Đạo đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng đồng tồn tại, phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề đạo đức để tìm ra con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi ích của mình và cộng đồng, từ đó đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng đồng.
    Trong sự vận động, phát triển của xã hội loài người, suy cho cùng nhân tố kinh tế là cái chủ yếu quyết định. Tuy nhiên nếu tuyệt đối hoá cái “chủ yếu” này thành cái “duy nhất” thì sẽ dẫn tư duy và hành động đến những lầm lạc đáng tiếc. Sự tiến bộ, phát triển của xã hội không thể thiếu vai trò của đạo đức. Và khi xã hội phân chia thành giai cấp, có áp bức bất công thì ý thức đạo đức giúp con người tự điều chỉnh hành vi của mình, biết đấu tranh cho cái thiện, đẩy lùi cái ác cổ vũ nhân loại vượt lên xốc tới. Đạo đức đã trở thành mục tiêu đồng thời cũng là động lực để phát triển xã hội.
    Vai trò của ý thức đạo đức còn được thể hiện ở các chức năng của nó:
    - Chức năng điều chỉnh hành vi: Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi. Sự điều chỉnh hành vi làm cá nhân và xó hội phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.Loài người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi, trong đó có chính trị, pháp quyền và đạo đức Chính trị điều chỉnh hành vi giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia bằng các biện pháp đặc trưng như ngoại giao, kinh tế, hành chính, bạo lực Pháp quyền và đạo đức điều chỉnh hành vi trong quan hệ giữa các cá nhân với cộng đồng bằng các biện pháp đặc trưng là pháp luật và dư luận xó hội, lương tâm. Sự điều chỉnh này, có thể thuận chiều, có thể ngược chiều.Điều chỉnh hành vi của đạo đức và pháp quyền khác nhau ở mức độ đũi hỏi và phương thức điều chỉnh.Pháp quyền thể hiện ra ở pháp luật, là ý chớ của giai cấp thống trị buộc mọi người phải tuân theo. Những chuẩn mực của pháp luật được thực hiện bằng ngăn cấm và cưỡng bức (quyền lực công cộng cùng với đội vũ trang đặc biệt, quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù ). Pháp quyền là đạo đức tối thiểu của mỗi cá nhân sống trong cộng đồng. Đạo đức đũi hỏi từ tối thiểu đến tối đa đối với các hành vi cá nhân. Phương thức điều chỉnh là bằng dư luận xó hội và lương tâm. Những chuẩn mực đạo đức bao gồm cả chuẩn mực ngăn cấm và cả chuẩn mực khuyến khích. Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức bằng dư luận xó hội và lương tâm đũi hỏi từ tối thiểu tới tối đa hành vi con người đó trở thành đặc trưng riêng để phân biệt đạo đức với các hỡnh thỏi ý thức khỏc, cỏc hiện tượng xó hội khỏc và làm thành cỏi khụng thể thay thế của đạo đức.Mục đích điều chỉnh là để bảo đảm sự tồn tại và phát triển xó hội tạo nờn quan hệ theo nguyờn tắc hài hũa lợi ớch cộng đồng và cá nhân (và khi cần phải ưu tiên lợi ích cộng đồng).Đối tượng điều chỉnh: hành vi cá nhân (trực tiếp) qua đó điều chỉnh quan hệ cá nhân với cộng đồng (gián tiếp).Cách thức điều chỉnh được biểu hiện: lựa chọn giá trị đạo đức; xác định chương trỡnh của hành vi bởi lý tưởng đạo đức; xác định phương án cho hành vi bởi chuẩn mực đạo đức; tạo nên động cơ của hành vi bởi niềm tin, lý tưởng, tỡnh cảm của đạo đức, kiểm soát uốn nắn hành vi bởi dư luận xó hội.Chức năng điều chỉnh hành vi được thực hiện bởi hai hỡnh thức chủ yếu: xó hội và tập thể tạo dư luận để khen ngợi khuyến khích cái thiện, phê phán mạnh mẽ cái ác; bản thân chủ thể đạo đức tự giác điều chỉnh hành vi cơ sở những chuẩn mực đạo đức xó hội.
    - Chức năng giáo dục: Con người vươn lên “chân - thiện - mỹ”. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể của lịch sử. Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thỡ hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy.Con người sinh ra bắt gặp hệ thống đạo đức của xó hội. Hệ thống ấy tỏc động đến con người và con người tác động lại hệ thống. Hệ thống đạo đức do con người tạo ra, nhưng sau khi ra đời hệ thống đạo đức tồn tại như là cái khách quan hoá tác động, chi phối con người.Xó hội cú giai cấp hỡnh thành và tồn tại nhiều hệ thống đạo đức mà các cá nhõn chịu sự tỏc động. Ở đây, môi trường đạo đức tác động đến đạo đức cá nhân bằng nhận thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nhận thức đạo đức để chuyển hoá đạo đức xó hội thành ý thức đạo đức cá nhân. Thực tiễn đạo đức là hiện thực hoá nội dung giáo dục bằng hành vi đạo đức. Các hành vi đạo đức lặp đi lặp lại trong đời sống xó hội và cỏ nhõn làm cả đạo đức cá nhân và xó hội được củng cố, phát triển thành thói quen, truyền thống, tập quán đạo đức.Hiệu quả giáo dục đạo đức phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xó hội, cách thức tổ chức, giáo dục mức độ tự giác của chủ thể và đối tượng giáo dục trong quá trỡnh giỏo dục. Giỏo dục đạo đức gắn với tiến bộ đạo đức:nhân đạo hóa các quan hệ xó hội và mức độ phổ biến nhân đạo hóa các quan hệ xó hội; sự hoàn thiện của cấu trúc đạo đức và mức độ phổ biến của nó sẽ giúp chủ thể lựa chọn, đánh giá đúng các hiện tượng xó hội, đánh giá đúng tư cách của người khác hay của cộng đồng cũng như tự đánh giá đúng thông qua mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, nội dung, phương thức, hỡnh thức và các bước đi của quá trỡnh giỏo dục sẽ giỳp mỗi cỏ nhõn và cả cộng đồng tạo ra các hành vi và thực tiễn đạo đức đúng. Như vậy, chức năng giáo dục của đạo đức cần được hiểu một mặt “giáo dục lẫn nhau trong cộng đồng”, giữa cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân và cộng đồng;mặt khác, là sự “ tự giáo dục” ở các cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cá nhân lẫn cấp độ cộng đồng.
    -Chức năng nhận thức:Với tư cách là một hỡnh thỏi ý thức xó hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xó hội.Sự phản ỏnh của đạo đức với hiện thực có đặc điểm riêng khác với các hỡnh thỏi ý thức khỏc.Đạo đức là phương thức đặc biệt của sự chiếm lĩnh thế giới con người. Nếu xét dưới góc độ bản thể luận, đạo đức là hệ thống tinh thần, được quy định bởi tồn tại xó hội. Nhưng xét dưới góc độ xó hội học thỡ hệ thống tinh thần (nhận thức đạo đức) không tách rời thực tiễn – hành động của con người. Do vậy, đạo đức là hiện tượng xó hội vừa mang tớnh tinh thần vừa mang tớnh hành động hiện thực.Sự nhận thức của đạo đức có đặc điểm: Hành động đạo đức tiếp liền sau nhận thức giá trị đạo đức. Và đa số trường hợp có sự hũa quyện ý thức đạo đức với hành động đạo đức. (Khác những khoa học và ứng dụng nghiên cứu thành tựu khoa học có khoảng cách về không gian và thời gian).Nhận thức của đạo đức là quỏ trỡnh vừa hướng ngoại (hướng ra ngoài) và hướng nội (tự nhận thức – hương vào chính mỡnh, chớnh chủ thể).Nhận thức hướng ngoại lấy chuẩn mức, giá trị, đời sống đạo đức của xó hội làm đối tượng. Đó là hệ thống giá trị thiện và ác, trách nhiệm và nghĩa vụ, hạnh phỳc và ý nghĩa cuộc sống , những “cỏch thức và phương tiện” tạo ra các giá trị đạo đức. Nhờ sự nhận thức này mà chủ thể nhận thức đó chuyển húa đạo đức của xó hội như là cái chung thành ý thức đạo đức của cá nhân như là cái riêng.Nhận thức hướng nội (tự nhận thức), lấy bản thõn mỡnh – chủ thể đạo đức – làm đối tượng nhận thức. Đây là quá trỡnh tự đánh giá, tự thẩm định, tự đối chiếu những nhận thức, hành vi, đạo đức của mỡnh với những chuẩn mực giỏ trị chung của cộng đồng. Từ cách nhận thức này mà chủ thể hỡnh thành phỏt triển thành cỏc quan điểm và nguyên tắc sống: sáng tạo hay chủ động, hy sinh hay hưởng thụ, vị tha hay vị kỷ, hướng thiện hay sa vào cái ác Trong tự nhận thức, vai trũ của dư luận xó hội và lương tâm là to lớn. Dư luận xó hội là sự bỡnh phẩm, đánh giá từ phía xó hội đối với chủ thể, cũn lương tâm là sự phê bỡnh. Cả hai đều giúp chủ thể tái tạo lại giá trị đạo đức của mỡnh – giỏ trị mà xó hội mong muốn.Từ nhận thức giỳp chủ thể ý thức được trách nhiệm của mỡnh và sẵn sàng để ho thành trách nhiệm đó. Trong cuộc sống có vô số những trách nhiệm như vậy. Nó luôn đặt ra trong quan hệ phong phú giữa chủ thể đạo đức với xó hội, gia đỡnh, bạn bố, đồng chí, đồng đội, tập thể, dân tộc, gia cấp, tổ quốc.Nhận thức đạo đức (đạo đức phản ánh hiện thực) ở hai trỡnh độ : trỡnh độ thông thường và trỡnh độ lý luận.Nhận thức đạo đức ở trỡnh độ thông thường là ý thức thụng thường, những giá trị riêng lẻ. Nó đáp ứng nhu cầu đạo đức thông thường đủ để chủ thể xử lý kịp thời trong cuộc sống và sự phỏt triển bỡnh thường của xó hội. Mọi cỏ nhõn đều có thể và cần phải ảnh ánh đạo đức ở trỡnh độ này. Nhận thức đạo đức ở trỡnh độ lý luận là những nhận thức có tính nguyên tắc được chỉ đạo bởi những giá trị đạo đức có tính tổng quát. Trỡnh độ này đáng ứng những đũi hỏi của sự phỏt triển đạo đức và tiến bộ xó hội. Đây là yếu tố không thể thiếu được trong hệ tư tưởng và hành vi của các gia cấp cầm quyền. Nhận thức đạo đức đưa lại tri thức đạo đức, ý thức đạo đức. Các cá nhân, nhờ tri thức đạo đức, ý thức đạo đức xó hội đó nhận thức (trở thành đạo đức cá nhân). Cá nhân hiểu và tin ở các chuẩn mực, lý tưởng giá trị đạo đức xó hội trở thành cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, thực hiện đạo đức (hiện thực hóa đạo đức).
    3. Một số kết luận chung.
    Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là tổng số các nguyên tắc, các quy tắc định hướng hành vi của con người trong giao tiếp xã hội. Những nguyên tắc, quy tắc ấy là sự biẻu hiện của quan hệ hiện thực xác định giữa con người với con người. Việc giáo dục đạo đức là quá trình “ chuyển” những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đã được xã hội thừa nhận vào trong ý thức của mỗi cá nhân để nó trở thành “năng lực nội sinh- năng lực tự ý thức” nhằm điều chỉnh, chế ước hành vi của mỗi cá nhân. Bởi vậy ý thức đạo đức có vai trò hết sức to lớn, không có ý thức đạo đức xã hội sẽ không thể tiến lên được. Sự hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức.Ý thức đạo đức phải được thể hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa cái ác.
     
Đang tải...