Tài liệu Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của trung quốc ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Ngoại Thương - Du Lịch' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Vận dụng kinh nghiệm trong hoạt động thu hút FDI của trung quốc ở Việt Nam

    LỜI NÓI ĐẦU

    Sau hơn 20 năm (từ 1979 đến nay) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đă đạt được những thành tựu to lớn, thu hút sự chú ư của cả thế giới. Kim ngạch ngoại thương hai chiều của Trung Quốc đă tăng từ 28 tỷ USD năm 1982 lên 510 tỷ USD năm 2001. Năm 2001, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu đứng thứ bẩy thế giới (266,3 tỷ USD) và là nước nhập khẩu đứng thứ 8 trên thế giới (243,7 tỷ USD). Cho đến nay, tương ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đă tăng lên rơ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc.
    Mét trong những yếu tố tạo nền sự phát triển mạnh mẽ kinh tế của Trung Quốc trong hơn 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Từ năm 1992 đến nay, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu trên thế giới về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và thậm chí đă vượt qua Hoa Kỳ vào năm 2002 với 52,7 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành động lực của sự phát triển kinh tế Trung Quốc và chính nó là yếu tố then chốt để nước này thực hiện công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Quan trọng hơn, nó là cơ sở chủ yếu để Trung Quốc thực hiện bước chuyển từ một nước nông nghiệp, khai thác tài nguyên, xuất khẩu nguyên liệu là chính sang thành nước sản xuất và xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp chế tạo. Nhờ có đầu tư trực tiếp nước ngoài mà đất nước Trung Quốc đă thay da đổi thịt. Nếu như trước khi mở cửa, Trung Quốc được ví như một hành tinh chết, không sinh sôi, không nảy nở, phát triển th́ sau 20 năm mở cửa, một đất nước Trung Quốc lớn mạnh đang h́nh thành, tạo nên một trong những “điều thần kỳ kinh tế vĩ đại nhất của thế kỷ”.
    Việt Nam tiến hành cải cách mở cửa sau Trung Quốc 8 năm nên việc tham khảo kinh nghiệm trong lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc trong quá tŕnh phát triển kinh tế là cần thiết.
    Về mặt lư luận, nó giúp ta có thêm dữ liệu để hiểu kỹ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài, vừa là điều kiện để đánh giá chuẩn xác hơn sự tác động của loại h́nh kinh tế này đối với quá tŕnh phát triển kinh tế ở Việt Nam. Về thực tiễn, Trung Quốc phát triển kinh tế thành công một phần lớn là nhờ đă triệt để tận dụng những ưu thế của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bài học thiết thực được đúc kết là nước nào có năng lực thu hút và biết sử dụng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài th́ kết quả đạt được trong quá tŕnh phát triển tương đối thành công.
    Chóng ta tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc chính là cơ sở để học hỏi những thành công và né tránh những điều chưa hợp lư mà Trung Quốc đă vấp phải. V́ đầu tư trực tiếp nước ngoài không phải là “ch́a khoá vạn năng”, nó cũng có những mặt trái nên trong khoá luận này, tôi xin đề cập cả những bài học thành công cũng như chưa thành công của Trung Quốc. Tham khảo một cách có chọn lọc những bài học kinh nghiệm là yêu cầu cần thiết, bổ Ưch cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
    Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận chia thành 3 chương:
    Chương I: Thực trạng thu hót FDI tại Trung Quốc.
    Chương II: Những bài học kinh nghiệm trong thu hót FDI tại Trung Quốc.
    Chương III: Vận dông kinh nghiệm trong hoạt động thu hót FDI của trung quốc ở Việt Nam.
    Do tŕnh độ và thời gian có hạn nên khoá luận này không tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ư của thầy cô và các bạn.
    Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Bùi Thị Lư, người đă tận t́nh hướng dẫn tôi trong việc hoàn thành khoá luận này.

    Hà Nội, tháng 5 năm 2003.
    Người viết
    Học viên Nguyễn Thị Thu Hảo

    CHƯƠNG ITHỰC TRẠNG THU HÓT FDI TẠI TRUNG QUỐC
    Năm 1979 đánh dấu việc Trung Quốc mở cửa thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Kể từ đó đến nay, t́nh h́nh thu hót FDI tại Trung Quốc đă có những biến chuyển mạnh mẽ. Có thể tóm tắt quá tŕnh thu hót FDI tại Trung Quốc thành bốn giai đoạn.

    I. THU HÓT FDI TẠI TRUNG QUỐC QUA CÁC GIAI ĐOẠN

    1. Giai đoạn thăm ḍ (1979 - 1985)
    Do Trung Quốc có một thời gian dài đóng cửa bài ngoại nên đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc trong giai đoạn đầu này chỉ mang tính thăm ḍ, mức độ chậm chạp, quy mô không lớn. Chủ yếu là các dự án đầu tư vào vùng duyên hải của các nhà tư bản vừa và nhỏ ở Hồng Kông, Ma Cao. Các nhà đầu tư chủ yếu đầu tư vào các công tŕnh nhà hàng, khách sạn thu lợi tương đối cao. Hầu hết các hạng mục quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, kỳ hạn quay ṿng vốn ngắn. Tính tới cuối năm 1985, Trung Quốc đă thu hút được 6.321 hạng mục, với số vốn đầu tư thực tế là 4,72 tỷ USD. Hầu hết các hạng mục sử dụng nhiều lao động vào những ngành gia công cấp thấp hoặc trung b́nh. Mục đích của nhà đầu tư lúc đó là lợi dụng sức lao động rẻ ở Trung Quốc.

    2. Giai đoạn phát triển ổn định (1986 - 1991)
    Đầu năm 1986, Trung Quốc có sự điều chỉnh. Chiến lược thu hót FDI được cựu Tổng bí thư Đảng CS Trung Quốc Triệu Tử Dương gọi là “lưỡng đầu tại ngoại”, tức là dựa vào bên ngoài cả về cung đầu vào lẫn thị trường đầu ra. Với chiến lược này, Trung Quốc quyết định lấy mục tiêu kinh tế loại h́nh hướng ra bên ngoài là kết hợp công thương, lấy xây dựng công nghiệp làm chủ, lấy trọng điểm từ việc trải ra kinh doanh chuyển hướng cơ bản sang nắm sản xuất, nâng cao tŕnh độ để đạt hiệu quả kinh tế. Đây là quyết định có ư nghĩa quan trọng cho sự phát triển kinh tế ở Trung Quốc. Chính sách này rất khác so với chính sách của nhiều nước công nghiệp hoá mới (NICs) là thu hót FDI vào sản xuất thay thế nhập khẩu. Đặc điểm của Trung Quốc là đồng thời chuyển đầu tư nước ngoài từ thay thế nhập khẩu sang hướng về xuất khẩu đồng thời vẫn thực hiện công nghiệp hoá. Đặc điểm này đă làm cho các nhà đầu tư chú ư.
    Các nhà đầu tư từ trên 60 nước và khu vực, chủ yếu là từ Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Nhật Bản và các nước phát triển phương Tây đă đến Trung Quốc. Họ chủ yếu đầu tư vào các ngành năng lượng, thông tin, chế tạo máy, điện tử, dệt, công nghiệp nhẹ, hoá chất, nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, đánh cá, xây dựng và ngành bất động sản. Những dự án được chấp thuận ở các tỉnh và thành phố duyên hải chiếm 80% tổng số của cả nước. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài có sự chuyển hướng từ các ngành kinh doanh dịch vụ sang các ngành công nghiệp chế tạo, chủ yếu là các ngành công nghiệp tập trung nhiều lao động, sản phẩm được tái xuất qua Hồng Kông phù hợp với chiến lược sử dụng vốn nước ngoài cho mục đích xuất khẩu của Trung Quốc, đă làm tổng sản lượng công nghiệp tăng lên.
    Năm 1991, Trung Quốc đă thông qua việc khống chế vĩ mô, kết hợp chặt chẽ chính sách ưu đăi trong thu hút vốn nước ngoài và chính sách ngành nghề của đất nước, khuyến khích có trọng điểm đầu tư nước ngoài vào các hạng mục theo hướng phù hợp với chính sách ngành nghề, các hạng mục phải có quy mô tương đối lớn và có kỹ thuật tiên tiến. Đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển vững chắc hơn. Theo báo cáo điều tra của Cục mậu dịch Hồng Kông, từ năm 1979 - 1991, Trung Quốc đă phê chuẩn 12.100 hạng mục vốn nước ngoài, kim ngạch kư kết theo hiệp định là 121,5 tỷ USD, vốn lợi dụng thực tế đạt 79,6 tỷ USD.
    Nh́n chung, giai đoạn 1984 - 1991, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc phát triển ổn định, có sự tăng trưởng cao. Đặc điểm chủ yếu của đầu tư là các hạng mục mang tính sản xuất ngày càng tăng, (riêng năm 1991 chiếm trên 90%). Các hạng mục mang tính kỹ thuật tiên tiến và thuộc loại h́nh xuất khẩu ngày càng nhiều.

    3. Giai đoạn phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ (1992 - 1993)
    Bước sang thập kỷ 90, sau chuyến đi thị sát của Đặng Tiểu B́nh ở các tỉnh phía Nam, tại Đại hội XIV năm 1992, Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định đẩy nhanh tốc độ kinh tế thị trường. Cả nước đă h́nh thành kết cấu mở cửa đối ngoại bao gồm 339 huyện thị với diện tích hơn 50 vạn km[SUP]2[/SUP] và hơn 300 triệu người. Trung Quốc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư ngày càng phù hợp với yêu cầu và đ̣i hỏi của kinh tế thị trường, mở rộng thêm các lĩnh vực đầu tư, quyết định đẩy nhanh sự phát triển của ngành nghề thứ ba và đặc biệt là mở rộng thị trường nội địa. Các nhà đầu tư đă nh́n thấy thị trường nội địa rất tốt, tiềm lực rất lớn, do vậy họ đă đầu tư ồ ạt vào thị trường trong nước.
    Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc tăng trưởng cao chưa từng thấy. Số lượng đầu tư của thương gia nước ngoài tăng theo cấp số nhân. Năm 1992, tổng số hạng mục đầu tư của thương gia nước ngoài kư kết trên cả nước là 48.764 hạng mục, tăng 3,75 lần so với 1991. Nó vượt quá cả tổng số hạng mục thời kỳ 1979 - 1991 là 42.027 hạng mục. Kim ngạch kư kết theo hiệp định là 58,12 tỷ USD, tăng 4,85 lần so với 1991, vượt qua tổng kim ngạch kư kết thời kỳ 1979 - 1991, là 52,54 tỷ USD. Kim ngạch sử dụng thực tế là 11,01 tỷ, tăng 2,52 lần so với năm 1991. Năm 1993, số dự án đầu tư của thương gia nước ngoài lên tới 83.437 hạng mục, tăng 71,1% so với năm 1992. Kim ngạch kư kết theo hiệp định là 111,44 tỷ USD, tăng 149,95% so với năm trước. Đồng thời nó cũng nhiều hơn tổng kim ngạch kư kết 14 năm trước đó (1987 - 1992) là 110,46 tỷ USD. Mức sử dụng thực tế đạt 27,52 tỷ USD, tăng 2,49 lần so với năm 1992 và tương đương 80% tổng kim ngạch 14 năm trước đó.
    Nguồn FDI trong 2 năm đến từ hơn 120 nước và khu vực. Tốc độ tăng trưởng của các nước phương Tây tăng nhanh. Trong đó các công ty xuyên quốc gia (TNCs), các nhà tư bản từ 3 cường quốc Mỹ - Nhật - EU ngày càng tăng cường số lượng đầu tư vào Trung Quốc.
    TNCs và các nhà tư bản lớn phương Tây đầu tư vào Trung Quốc mang theo một số loại h́nh đầu tư mới, quy mô đầu tư lớn, khởi điểm kỹ thuật cao, sản phẩm cao cấp hoá. Các dự án mang tính sản xuất trong kết cấu ngành nghề giảm xuống. Các dự án mang tính phi sản xuất phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt là ngành bất động sản tăng cao, chiếm tỷ trọng lớn trong số các dự án và tỷ lệ trong số vốn của hiệp định từ 9,3% và 31% năm 1992 lên đến 13,57% và 39,28% năm 1993.
    Do đầu tư tăng cao đă gây nên những cơn sốt đầu tư, gây ra t́nh trạng rối loạn về bất động sản, về mở khu chế xuất, khu khai thác kinh tế kỹ thuật. Đầu tư tăng cao đă làm cho nền kinh tế trở nên quá nóng. Năm 1992, kinh tế tăng trưởng 12%, năm 1993 tăng 13,4%. Tốc độ tăng trưởng này đă kéo theo rối loạn về tài chính tiền tệ, tổng cung và tổng cầu mất cân bằng ảnh hưởng đến lạm phát.
    Năm 1992, 1993, tuy đầu tư tăng trưởng cao nhưng tỷ trọng kim ngạch sử dụng thực tế trong kim ngạch hiệp định mỗi năm là 18,9% và 24,7%, thấp hơn so với mấy năm trước đó. T́nh trạng này xẩy ra một phần do ở nhiều địa phương đă mù quáng đưa các hạng mục đầu tư mà tiền vốn đồng bộ trong nước kèm theo không đủ, thiết bị cơ sở hạ tầng không theo kịp, nguyên liệu, nhiên liệu, cung ứng không đủ.
    Nh́n chung, FDI những năm 1992 - 1993 tăng trưởng với tốc độ cao ở Trung Quốc. Đặc trưng cơ bản của nó là mở rộng khu vực đầu tư, mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô dự án, cải thiện kết cấu đầu tư, kết cấu ngành nghề có sự chuyển biến cao cấp hoá.

    4. Giai đoạn điều chỉnh (1994 đến nay)
    Trước t́nh trạng FDI tăng trưởng quá nóng trong giai đoạn 1992 - 1993, từ năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đă tiến hành điều chỉnh chiến lược thu hót FDI theo hướng:
    + Đưa tiền vốn vào từ công nghiệp gia công thông thường chuyển sang các ngành nghề cơ sở, ngành nghề tập trung nhiều tiền vốn và kỹ thuật.
    + Từ tiếp nhận những hạng mục nhỏ chuyển sang tiếp nhận những hạng mục lớn và vừa.
    + Từ thu hút tiền vốn ngành nghề chuyển sang thu hút tiền vốn lưu thông quốc tế.
    + Từ xây dựng doanh nghiệp mới là trọng tâm chuyển sang cải tạo những doanh nghiệp cũ.
    + Từ việc đưa đầu tư vào đối tượng bị động chuyển sang đưa vào đối tượng chủ động, có lựa chọn, chú trọng hơn đến chất lượng của đầu tư.
    Chính sách điều chỉnh đă làm dịu t́nh trạng kinh tế quá nóng của Trung Quốc trong 2 năm 1992 - 1993. Trong 6 tháng đầu năm 1994, những cơn sốt về mở khu chế xuất và bất động sản đă dịu xuống. Số lượng dự án mở khu chế xuất, khu phát triển kỹ thuật ở các tỉnh Giang Tô, Triết Giang, Sơn Đông, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Liêu Ninh, Hà Bắc đă giảm từ hơn 1.200 khu xuống chỉ c̣n 200 khu. Kim ngạch dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 143,5% trước đây chỉ c̣n tăng 43,9%. Ở khu vực duyên hải - điểm nóng mà thương gia nước ngoài đầu tư ngoài Thượng Hải - tăng mét chút 1,5%, với kim ngạch tăng 14,2%, các tỉnh và thành phố khác đều có xu thế giảm đi, trong đó, Giang Tô giảm 55,5%, Sơn Đông giảm 50%.
    Nhờ điều chỉnh mà đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đă có sự chuyển biến rơ rệt từ số lượng sang chất lượng. Từ năm 1994 đến nay, mặc dù kim ngạch hiệp định có xu hướng giảm đi nhưng kim ngạch sử dụng thực tế tăng lên. Thượng Hải và Bắc Kinh từng nơi tăng trưởng 2,1 lần và 2,7 lần. Sơn Đông tăng Ưt nhất cũng đạt 17%. Tính chung cả nước trong năm 1994, số hạng mục đầu tư được Trung Quốc phê chuẩn là 47.490, giảm 43,09% so với năm 1993. Sè kim ngạch đầu tư kư kết theo hiệp định là 81,41 tỷ USD, giảm 26,95%. Song sè kim ngạch sử dụng thực tế là 33,75 tỷ USD, tăng 22,78%, chiếm 41,5% trong tổng kim ngạch đầu tư kư kết theo hiệp định. Vốn FDI thực tế vào Trung Quốc trong hai năm tiếp theo 1995, 1996 cũng vẫn tăng đều đặn với mức 10%/ năm.
    Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997 mà luồng vốn FDI vào Trung Quốc có sụt giảm trong hai năm 1998, 1999. Kim ngạch thực tế trong hai năm này lần lượt chỉ đạt 43,7 tỷ USD và 40,3 tỷ USD, giảm 1% và 7% so với những năm trước đó. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ làm giảm thực lực kinh tế của các nước trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan, Hồng Kông, vốn là những đối tác đầu tư chủ yếu của Trung Quốc (chiếm hơn 75% tổng vốn FDI). Các nước này phải giải quyết những khó khăn nội tại nên giảm đầu tư ra nước ngoài nói chung và vào Trung Quốc nói riêng. Trung Quốc đă tiến hành một loạt các biện pháp nhằm tăng cường sức hấp dẫn của môi trường đầu tư như: duy tŕ ổn định tỷ giá đồng NDT, duy tŕ tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, tiếp tục đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng, lựa chọn những hạng mục đầu tư có hiệu quả cao, nâng cao hàm lượng khoa học kỹ thuật của các hạng mục. Nhờ vậy, từ năm 2000, FDI vào Trung Quốc bắt đầu phục hồi trở lại mức 40,77 tỷ USD, 46,87 tỷ USD vào năm 2001, và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002 và theo dự đoán trong năm 2003 sẽ đạt 60 tỷ USD. Hiện nay, có hơn 400.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuộc 180 nước và vùng lănh thổ đang hoạt động ở Trung Quốc.

    II. ĐẶC ĐIỂM FDI TẠI TRUNG QUỐC

    1. Nguồn vốn đầu tư
    Với thị trường tiêu thụ khổng lồ và môi trường đầu tư thuận lợi, Trung Quốc là một mảnh đất màu mỡ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Như Lord Powell, Chủ tịch của China - British Council tuyên bè: “Đường phố Trung Quốc không được dát vàng. Nhưng Trung Quốc tới nay đă thu hút nhiều vốn FDI hơn bất cứ quốc gia nào, trừ Mỹ, và thu hút được một lượng FDI lớn gấp 10 lần lượng FDI vào Ên Độ.”
    Lượng vốn FDI đổ vào Trung Quốc ngày càng nhiều. Chỉ riêng trong giai đoạn 1996 - 1999, FDI vào Trung Quốc đạt 126 tỉ USD, gấp 6 lần FDI vào Nhật Bản. Nếu như năm 1991, Trung Quốc chỉ đứng thứ 13 thế giới và thứ 3 trong các nước đang phát triển về thu hót FDI th́ từ năm 1992 - 1998, Trung Quốc liên tục đứng đầu các nước đang phát triển và đứng trong tốp đầu của thế giới về thu hót FDI. Tuy nhiên, năm 1999, FDI giảm từ mức 48 tỷ USD (1998) xuống c̣n 40,4 tỷ USD (1999). Đây là lần đầu tiên luồng FDI vào Trung Quốc có sự giảm sút kể từ khi Trung Quốc cải cách kinh tế và mở cửa từ 1979. Từ năm 2000, FDI đă khởi sắc trở lại mức 40,7 tỷ USD, tăng lên 46,8 tỷ USD vào năm 2001 và tăng lên con số kỷ lục là 52,7 tỷ USD vào năm 2002.

    H́nh 1: 13 nước thu hót FDI hàng đầu thế giới năm 2000 và 2001
    Đơn vị : tỷ USD
    [​IMG]














    Nguồn: UNCTAD World Investment Report 2002.

    Tính tới cuối năm 2001, tổng kim ngạch kư kết theo hiệp định đạt 731,9 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 395,192 tỷ USD. Riêng năm 2001, Trung Quốc đă phê chuẩn 26.140 hạng mục, với số vốn kư kết theo hiệp định là 69,19 tỷ USD, số vốn sử dụng thực tế đạt 46,87 tỷ USD.
    Nh­ vậy mặc dù sự kiện 11 tháng 9 có làm sụt giảm đầu tư toàn cầu nhưng nhờ việc Trung Quốc gia nhập WTO (tháng 11 / 2001), nên đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc vẫn gia tăng. Với 46,84 tỷ USD tiếp nhận được, Trung quốc đă chiếm 23% vốn FDI vào các nước đang phát triển và chiếm 6,4% vốn FDI toàn cầu.

    2. Đối tác đầu tư

    H́nh 2: Đầu tư chủ yếu của MNCs và Tư bản Hoa kiều (expatriates)
    giai đoạn 1983 - 1997[​IMG]
    Đơn vị: triệu USD











    Nguồn: Guha, Ashok and Ray, Amit S. (2000), “Multinational vs Expatriate FDI: A comparative Analysis of the Chinese and Indian experience”, New Delhi.
    Ngay từ khi mới mở cửa, Trung Quốc đă huy động tối đa tiềm năng của người Hoa ở nước ngoài phục vụ cho hoạt động thu hút đầu trực tiếp nước ngoài. Người Hoa ở nước ngoài không những đă trở thành lực lượng hùng hậu tiến hành việc tuyên truyền, quảng bá chính sách, vận động, làm môi giới . đầu tư trực tiếp nước ngoài cho Trung Quốc mà họ c̣n là những nhà đầu tư chủ yếu trực tiếp chuyển vốn về nước thực hiện các dự án đầu tư. Theo thống kê của nhiều chuyên gia kinh tế Trung Quốc, có tới 70 - 80% số dự án và trên 65% tổng vốn FDI vào Trung Quốc là của tư bản Hoa kiều.
    Trong tổng vốn đầu tư của tư bản người Hoa và Hoa kiều đầu tư về Trung Quốc đại lục, đầu tư của Hoa kiều ở Hồng Kông, Đài loan, Ma Cao chiếm tỷ trọng chủ yếu. Điều này giải thích tại sao Hồng Kông, Đài Loan luôn nằm trong danh sách những đối tác đầu tư lớn nhất của Trung Quốc.Bảng 1: Mười nhà đầu tư lớn nhất Trung Quốc năm 2001 Đơn vị: tỷ USD
     
Đang tải...