Báo Cáo Vấn đề giới trong quyết định phát triển kinh tế nông hộ ở huyện lương sơn, tỉnh hoà bình

Thảo luận trong 'Sinh Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    SUMMARY
    A case study involving 41 farm households was conducted to examine the contribution of men and women in making decision on production, credit, cash expense and family assets in the farm households and to make the recommendations for the gender-oriented extension in Luong Son district, Hoa Binh Province, Vietnam. It was found that women participated considerably in making decision on issues related to farming and living activities, indicating their significant role in income generation and households economic development. In order to improve the decision making capacity for women and to promote economic development, qualification of not only technical know-how but also economic and management knowledge through extension programs is necessary.


    Key words: gender issuies, decission making, production, credid, maney spend, holding valueable assets


    1. ĐặT VấN Đề
    Trong xã hội văn minh phát triển, phạm trù giới luôn được đề cập đến trong mọi chương trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Các lĩnh vực kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn bao giờ cũng kém phát triển hơn khu vực thành thị, do vậy trong các chương trình nghiên cứu
    nông nghiệp, nông thôn và nghiên cứu kinh tế hộ thì vấn đề giới càng đặc biệt được coi trọng. ë Việt Nam phụ nữ nông thôn chiếm 53% lao động nông nghiệp và gần 80% phụ nữ cả nước (Lê Thị Vinh Thi, 1998), họ tham gia và đóng góp vào nhiều hoạt động sản xuất cũng như các lĩnh
    vực của cuộc sống với nhiều cách khác nhau, nhưng những nghiên cứu về vấn đề này còn tương
    đối ít, đặc biệt là nghiên cứu về giới trong quyết định sản xuất và các công việc khác trong gia
    đình. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến mức độ tham gia của phụ nữ và nam giới trong quyết định các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế và đời sống của nông hộ, trên cơ sở
    đó góp phần đề xuất những vấn đề liên quan đến khuyến nông có chú ý vấn đề giới


    2. Phư¬ng ph¸p nghiên cứu
    Nghiên cứu này được tiến hành tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đề tài đã chọn xã Tân Vinh, đại diện cho vùng trung tâm huyện có điều kiện tiếp cận thị trường thuận lợi, và xã
    Đông xuân, đại diện cho vùng phía Bắc có điều kiện địa hình đồi núi, điều kiện sản xuất, giao thông và đời sống khó khăn. Nghiên cứu đã chọn 41 hộ để điều tra theo phương pháp phỏng vấn trực tiếp với mẫu câu hỏi soạn thảo trước, trong đó 8 hộ chủ hộ là nữ, 33 hộ chủ hộ là nam, một số hộ có tiếp cận khuyến nông và một số hộ chưa tiếp cận khuyến nông. Ngoài ra chúng tôi còn trao
    đổi ý kiến với cán bộ chủ chốt, trưởng trạm khuyến nông huyện Lương Sơn và các cán bộ khuyến nông của xã.
    Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê mô tả với sự trợ giúp của chương trình Excel và được phân tích theo phương pháp so sánh. Để so sánh mức độ tham gia quyết định của nữ giới và nam giới, chia nhóm người tham gia quyết định thành 4 nhóm: nhóm thứ 1: Người


    1 Khoa Kinh tế & PTNT, Trường ĐHNNI
    quyết định là nam giới, nhóm này gồm chồng, con trai và con rể; nhóm thứ 2: Người quyết định là nữ giới bao gồm vợ, con gái, con dâu; nhóm thứ 3: Người tham gia quyết định gồm cả hai vợ chồng cùng bàn bạc quyết định; nhóm thứ 4: Người tham gia quyết định gồm những người khác (bố, mẹ, cả nhà)
    3. Kết qu¶ nghiên cứu
    3.1. Giới trong quyết định sản xuất
    Trong sản xuất nông nghiệp, các vấn đề cần quyết định trong sản xuất ngành trồng trọt bao gồm quyết định thời gian gieo trồng, giống, công thức luân canh, sử dụng loại và lượng phân bón, thuốc trừ sâu, thời gian thu hoạch, thời gian bán sản phẩm. Quyết định trong chăn nuôi bao gồm chọn giống gia súc, nơi mua giống, chọn thức ăn cho chăn nuôi, chọn cách cho ăn, chọn thú y viên khi chữa bệnh cho gia súc, chọn thời điểm bán sản phẩm và nơi bán. Quyết định sản xuất ngành nghề và dịch vụ bao gồm định sản xuất ngành nghề gì, dịch vụ loại gì, buôn bán hàng gì, liên kết với ai trong sản xuất kinh doanh.
    Kết quả nghiên cứu ở Lương Sơn cho thấy phụ nữ quyết định 42,99% các vấn đề liên
    quan đến sản xuất ngành trồng trọt và 52,14% ngành chăn nuôi, còn nam giới quyết định tương ứng là 32,93% và 31,07%, tỉ lệ còn lại do hai vợ chồng và bố mẹ quyết định (bảng 1). Nếu so sánh giữa hai ngành sản xuất truyền thống trồng trọt và chăn nuôi thì trong ngành chăn nuôi, nữ quyết
    định nhiều hơn nam.


    Bảng 1. Mức độ tham gia quyết định sản xuất của nam và nữ (%)
    Diễn giải Trồng trọt Chăn nuôi Ngành nghề
    Nam 32,93 31,07 23,61
    Nữ 42,99 52,14 34,72
    Cả hai vợ chồng 23,48 16,79 41,67
    Những người khác 0,61 0,00 0,00
    Tổng số 100,00 100,00 100,00
    Nguồn: số liệu điều tra năm 2004


    Các ngành nghề buôn bán dịch vụ chính hiện nay ở hai xã là mây tre đan, đồ gỗ, buôn bán hàng khô, bán giải khát. Đối với phát triển các ngành nghề nói chung, mức độ tham gia quyết
    định của nữ giới vẫn cao hơn so với nam giới, nhưng khác với hai ngành trên là tỉ lệ cả hai vợ chồng tham gia quyết địmh chiếm cao nhất (41,67%), trong khi đó nam giới đưa ra quyết định riêng chiếm tỷ lệ 23,61% và nữ giới riêng nữ quyết chỉ là 34,72%. So sánh giữa Tân Vinh và
    Đông Xuân thì nữ giới ở Đông Xuân tham gia quyết định phát triển ngành nghề nhiều hơn nữ giới
    của xã Tân Vinh.
    3.2. Giới trong quyết định vay vốn
    Frank (1998) cho rằng: Tham gia quyết định vay vốn thể hiện vai trò làm chủ của người phụ nữ trong gia đình. Mức độ tham gia của nữ giới trong vấn đề này phản ánh mức độ phụ thuộc kinh tế của họ vào nam giới nhiều hay ít và sự tiếp cận với các yếu tố sản xuất.
    Kết quả nghiên cứu cho thấy trong quyết định vay vốn, nữ quyết định nhiều hơn nam giới,
    nữ quyết định 46,34%, còn nam chỉ quyết định 40,24% (bảng 2). Tuy nhiên quyết định vay các khoản tiền lớn thường do nam giới quyết định (nam 48,78% và nữ 34,41%), còn các khoản vay nhỏ thì do nữ giới quyết định (nam 31,70% và nữ quyết định 58,53%), và cả hai xã Tân Vinh và
    Đông Xuân đều phản ánh cùng xu hướng này.
    3.3. Giới trong quyết định các công việc lớn của gia đình
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...