Đồ Án Vấn đề chất lượng sản phẩm trên thị trường không chính thức ở các nước đang phát triển

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    25 trang

    VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TRÊN THỊ TRƯỜNG KHÔNG CHÍNH THỨC Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN.

    Một đặc trưng của nhiều thành phố ở các nước đang phát triển là sự song song tồn tại của các hãng kinh doanh lớn , có tổ chức tốt và công nghệ cao với những người buôn bán nhỏ (mà chỉ cần có một cái hòm gỗ làm chỗ bán hàng. Tổ chức lao động quốc tế (ILO gọi hai khu vực khác nhau này là “thị trường chính thức” và “thị trường không chính thức”.Thị trường không chính thức được đặc trưng bởi sự tồn tại của rất nhiều người buôn bán nhỏ được tự do gia nhập và rút lui khỏi thị trường và không có thể chế pháp lý để kiểm soát chất lượng sản phẩm. Loại thị trường này khác với thị trường cạnh tranh thông thường ở cách thức tiến hành trao đổi, buôn bán hàng hoá. Trong thị trường không chính thức quá trình trao đổi hàng hoá không tập trung và giá cả được định ra nhờ quá trình mặc cả ,thương lượng giữa người mua và người bán nhưng trong thị trường cạnh tranh quá trình trao đổi hàng hoá lại tập trung và giá cả đồng nhất.

    Các hoạt động bán hàng rong trên đường phố ở hầu hết mọi nơi trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển là những ví dụ điển hình của thị trường không chính thức hợp pháp. Những người bán hàng rong trên đường phố được coi là những người làm tư, những người bán lẻ tham gia vào quá trình phân phối nhiều loại hàng hoá sản xuất nội địa và hàng nhập khẩu. Trong cuốn ‘Chickering và Salahdine 1991 Alonzo viết: tại Philippines, trong số những người buôn bán lẻ thì những người bán hàng rong trên đường phố chiếm số lượng đông nhất. Thậm chí ở cả những khu vực nghèo nhất cứ cách 4 đến 5 nhà lại có một loại quầy hàng. Các quầy hàng thực phẩm bầy dọc theo vỉa hè rất phổ biến. Chính quyền địa phương ở Metro Manila không bao giờ can thiệp vào những người bán hàng rong miễn là họ trả đủ thuế kinh doanh cho chính quyền thành phố. Nhưng họ vẫn bị chính quyền địa phương buộc phải rời đi hết nơi này đến nơi khác vì lấn chiếm viả hè không có giấy phép. Tại Hồng Kông ở phố Shui



    Wo cứ 100m đường có đến hơn 300 người bán hàng rong. Chính phủ địa phương đã cố gắng di dời những người này vào các khu chợ nhưng đều vô ích. Ngoài ra thì chính phủ không bao giờ can thiệp vào công việc kinh doanh của họ.

    Mọi người đều tin rằng trên thị trường ô tô cũ “lemons”, chỉ sau khi mua hàng thì khách hàng mới biết được chất lượng của hàng hoá do đó uy tín bán hàng là một yếu tố ngăn cản rất hữu hiệu đối với những người bán hàng. Vì những người bán hàng rất coi trọng việc buôn bán về lâu về dài nên mối đe doạ bị khách hàng tẩy chay đối với người bán lừa đảo được coi là động lực để họ trung thực và duy trì bán hàng có chất lượng tốt. Mặc dù khả năng uy tín của người bán là để sửa chữa sự thoái hoá về đạo đức trong vấn đề chất lượng sản phẩm, nhưng ở các nước đang phát triển thì vẫn tồn tại những thị trường không chính thức mà chất lượng hàng hoá thường xuyên rất thấp. Rashid(1988 đã đưa ra những ví dụ rất lý thú về một vài trường hợp như vậy, chẳng hạn như sản phẩm sữa bị pha loãng ở Băng la đét và gạo bị trộn sỏi ở ấn Độ. Một đặc điểm nổi bật phổ biến trong những trường hợp mà Rashid kiểm tra là tất cả các thị trường đó đều là những thị trường có một số lượng rất lớn những người sản xuất nhỏ và được tự do gia nhập vào thị trường. Quan sát này còn gây nhiều thắc mắc vì những đặc tính trên thường có mối liên hệ với cạnh tranh hoàn hảo mà trong đó người mua được lợi nhiều nhất.

    Hàng hoá kém chất lượng xuất hiện ở một vài thị trường có thể là do khách hàng luôn có tâm lý ưa thích hàng hoá có giá rẻ hơn dù chất lượng có thấp hơn. Tuy nhiên trong hầu hết những ví dụ của Rashid thì điều này có vẻ là không đúng. Trong thị trường sữa ở Băng la đét người ta không thể hiểu được tại sao người tiêu dùng lại muốn mua sữa đã bị pha loãng trong khi họ có thể mua sữa nguyên chất về và tự pha loãng chúng. Như thế điều kiện vệ sinh của quá trình chế biến được đảm bảo hơn và thậm chí là giá cũng có thể thấp hơn. “Tôi có thể chắc chắn một điều là người dân không thực sự muốn mua sữa đã bị pha loãng ,vì sữa do chính họ pha loãng thì họ vừa có thể kiểm soát được mức độ pha loãng lại vừa đảm bảo được nước dùng để pha loãng là nước sạch”(Rashid 1988, trang 247. Thêm vào đó Barghan và Kletzer(1984 cũng chỉ ra rằng người tiêu dùng luôn muốn tìm đến những hàng hoá chất lượng tốt vì vậy khi họ mua phải hàng hoá chất lượng thấp họ cảm thấy như bị lừa. Vì vậy quan điểm cho rằng vấn đề chất lượng thấp trong thị trường không chính thức bắt nguồn từ thị hiếu của người tiêu dùng là không phù hợp.Như vậy câu hỏi tại sao người tiêu dùng lại mua hàng hoá chất lượng thấp vẫn chưa được trả lời.

    Có một cách giải thích khác cho vấn đề chất lượng là có thể người tiêu dùng không nắm được đầy đủ thông tin về sản phẩm và sự lựa chọn của họ bị ảnh hưởng bởi quảng cáo (Schmalensee1978.Có thể có một sự thật nào đó trong vấn đề này nhưng khó có thể tin rằng về lâu về dài khách hàng lại hoàn toàn lờ đi những việc làm trong quá khứ của những người bán hàng và động cơ để họ đảm bảo chất lượng hàng hoá.

    Akerlof (1970, là người đã quan sát vấn đề chất lượng ở thị trường ấn Độ lại cho rằng do thiếu kĩ năng kinh doanh nên những nhà sản xuất đã không đầu tư vốn và xây dựng uy tín của mình .Tuy nhiên khó có thể tin rằng một người bán hàng lại kinh doanh bằng cách gian lận vì thiếu kĩ năng kinh doanh. Việc người tiêu dùng trừng phạt những người bán hàng gian lận bằng cách không mua hàng hoá của họ nữa và thưởng cho những người buôn bán trung thực bằng cách sẵn sàng mua hàng chất lượng tốt cuả họ là lẽ đương nhiên. Thái độ của khách hàng dậy cho những người muốn bán hàng về lâu về dài bài học về giá trị của uy tín bán hàng.

    Rashid(1988 đã trả lời cho câu hỏi này, ông biện luận rằng đặc tính gia nhập dễ dàng vào thị trường của những người buôn bán nhỏ đã làm giảm đi khoản tiền mà những người bán hàng kì vọng có thể kiếm được từ việc kinh doanh lâu dài trên thị trường như vậy và do đó đã phá huỷ động lực để duy trì hàng hoá chất lượng cao. Esfahani (1991lại có một cách giải thích khác cho sự tồn tại dai dẳng của hàng hoá chất lượng kém. Ông cho rằng tính không chắc chắn của hàm chi phí của những người sản xuất nhỏ có thể là một đầu mối quan trọng để giải thích cho vấn đề này. Sự không chắc chắn như vậy khiến cho những người bán hàng có chất lượng cao bán với giá rất đắt, từ đó kích thích sản xuất sản phẩm có chất lượng rất đa dạng. Ông nhận thấy rằng việc lựa chọn sản xuất hàng hoá có chất lượng cao hay thấp phụ thuộc vào mức độ tương đối của lợi nhuận kiếm được từ việc sản xuất hàng hoá chất lượng cao hay thấp. Đối với một số khả năng mà chi phí cao thì sẽ tồn tại những chiến lược thuần tuý mà chất lượng cao. Sự đa dạng về chất lượng sản phẩm cũng có thể được giải thích bởi tính bất định của hàm chi phí trong mô hình của Espfahani. Tuy nhiên ta vẫn phải giải thích vì sao cân bằng chiến lược thấp vẫn luôn tồn tại trong thị trường không chính thức.

    Allen và Faulhaber (1988,1991 đã đưa ra một mô hình thú vị bình luận về nhiễu chất lượng sản phẩm cùng với những kì vọng hợp lý của ngươì tiêu dùng. Trong mô hình của họ, những người sản xuất cam kết sản xuất sản phẩm có một mức chất lượng nhất định trong 2 thời kỳ. Những người mua được biết một phần thông tin về chất lượng sản phẩm theo cách của Bayesian là tiêu thụ chất lượng sản phẩm đầu ra trong thời kỳ đầu. Họ nhận thấy rằng sự lạc quan tin tưởng vốn có của người tiêu dùng đã khuyến khích người bán hàng gian lận. Do người mua biết được điều này nên lòng tin tất yếu của họ dẫn họ đến chỗ kỳ vọng vào chất lượng thấp mà chính điều này đã khiến cho việc sản xuất những hàng hoá chất lượng cao sẽ không có lãi.

    Trong chương này chúng ta xây dựng một mô hình lý thuyết trò chơi mà đưa ra được một lời giải thích khác cho sự tồn tại dai dẳng của vấn đề chất lượng sản phẩm trong thị trường không chính thức. Nếu tồn tại sự không chắc chắn trong các thị trường yếu tố sản xuất và trong quá trình sản xuất thì giá cả sẽ không thể là dấu hiệu nhận biết chất lượng sản phẩm và uy tín không thể khuyến khích những người bán hàng nâng cao chất lượng sản phẩm của họ. Khách hàng nhận biết được các kiểu người bán hàng khác nhau thông qua hoạt động kinh doanh của họ trong quá khứ và thông qua chất lượng sản phẩm của họ trước đó. Chúng ta nhận thấy rằng cân bằng của những người bán hàng tồi mà trong đó người bán hàng chọn cách đầu tư vào đầu vào rẻ và khách hàng không tin tưởng vào người bán hàng luôn luôn là cân bằng chiến lược thuần tuý. Điều này có nghĩa là người bán không có động lực để nâng cao chất lượng sản phẩm của họ. Để xác định được liệu rằng cạnh tranh giữa những người bán có thể nâng cao chất lượng sản phẩm hay không, những người bán hàng mới được dẫn dắt gia nhập tự do vào thị trường không chính thức. Trong môi trường cạnh tranh chúng ta thấy rằng khách hàng vẫn không tin tưởng vào những người bán. Một người bán luôn có khuynh hướng đầu tư vào đầu vào rẻ và một người mua cũng luôn kỳ vọng vào đầu vào rẻ.

    Trò chơi bắt đầu với các quyết định của người bán. Trước hết một người bán quyết định cho mình là “người bán tốt” hay “người bán tồi”. Một người bán tốt là người bán muốn nâng cao chất lượng sản phẩm của mình bằng cách bỏ nhiều chi phí hơn và kỳ vọng mua được đầu vào tốt. Một người bán tồi thì đầu tư vào đầu vào tồi. Đầu vào tốt có nhiều khả năng sản xuất được hàng hoá chất lượng cao hơn là đầu vào tồi. Trong khi quyết định xem nên đầu tư vào đầu vào đắt hay đầu vào rẻ một người bán sẽ so sánh giá trị hiện tại đã được chiết khấu của lợi nhuận có thể kiếm được nếu là người bán tốt với lợi nhuận có thể kiếm được nếu là người bán tồi. Để mô tả mỗi thời kỳ trong 2 thời kỳ chúng ta sẽ đề cập đến đầu vào cố định này như là công nghệ rẻ tiền và công nghệ đắt tiền mà được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đầu ra với chi phí biên bằng không.

    Trò chơi diễn ra theo cách thức sau. Trong thời kỳ đầu, một người bán quyết định xem nên đầu tư vào công nghệ đắt tiền hay rẻ tiền kéo dài suốt 2 thời kỳ. Một người bán đưa ra một mức giá chào hàng sau đó một khách hàng quyết định chấp nhận hay từ chối lời chào hàng đó. Nếu khách hàng từ chối cả 2 người bán trên sẽ không thu được gì và phải đợi đến thời kỳ sau. Trong thời kỳ thứ 2 khách hàng quyết định xem sẽ mua hàng của người bán cũ hay của người bán mới. Để quyết định xem có chấp nhận hay từ chối lời chào hàng, khách hàng sẽ xem xét chất lượng sản phẩm mà anh ta đã mua của người bán hàng trong thời kỳ đầu. Một người bán hàng mới sẽ quyết định gia nhập thị trường với chi phí gia nhập bằng không chỉ khi lợi ích kỳ vọng của anh ta là không âm và có cầu đối với hàng hoá của anh ta.

    Trong chương này có hai giả thiết liên quan đến tính tự nhiên của một thị trường không chính thức. Giả thiết thứ nhất là chất lượng của các yếu tố đầu vào không ổn định. Những người bán tốt mua công nghệ đắt tiền nhưng cuối cùng thì công nghệ đó có thể lại là công nghệ tồi. Giả thiết này dựa trên đặc điểm của thị trường không chính thức. Vì thiếu những hành vi pháp lí có hiệu quả và những hạn chế về tài chính những người bán không có khả năng kiểm soát được chất lượng đầu vào. Trong cuốn “Chickering và Salahdine” (1991 Poapongsakorn chỉ ra rằng những người bán trong thị trường hàng may mặc không chính thức ở Thái Lan phải đối mặt với vấn đề chất lượng đầu vào thấp. Vì họ là những người buôn bán nhỏ nên họ không thể từ chối đầu vào này và thậm chí còn không thể phàn nàn. Giả thiết thứ 2 là về tính bất định của chất lượng đầu ra. Cả đầu vào tốt và đầu vào tồi đều có thể sản xuất được sản phẩm có chất lượng cao nhưng đầu vào tốt có nhiều khả năng sản xuất được sản phẩm chất lượng cao hơn là đầu vào tồi. Đây là sự bất ổn định trong sản xuất. Sự bất ổn định này là một vấn đề đặt ra đối với những doanh nghiệp nhỏ thâm dụng lao động và sử dụng công nghệ trong nước. Cả 2 giả thiết trên đều là đặc tính của thị trường không chính thức ở các nước đang phát triển.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...