Luận Văn Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay

Thảo luận trong 'Xã Hội Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/Hội/Lớp tại một số trường đại học hiện nay
    MỤC LỤC


    Lời cảm ơn

    Phần mở đầu

    I. Tên đề tài
    II. Tính cấp thiết cảu đề tài
    III. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
    IV. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
    Phần nội dung
    I. Cơ sở lý luận của đề tài
    II. Các khái niệm công cụ
    III. Mô tả mẫu nghiên cứu
    IV. Kết quả nghiên cứu

    A. Thực trạng cơ cấu cán bộ Đoàn/Hội SVLớp

    B. Đánh giá của sinh viên về vai trò giới trong đội ngũ cán bộ Đoàn/HộiSV/Lớp

    1. Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng của Lớp trưỏng/Bí thư chi đoàn/Chi hội trưởng
    2. Vẻ ngoài bình yên của những quan điểm vĩ mô
    a. Quan điểm về ngành học
    b. Quan điểm về mô hình “Nam trưởng- nữ phó”
    c. Quan điểm về thiên chức của phụ nữ, nam giới và bình đẳng giới
    d. Quan điểm về sự thành đạt và bất hạnh của người phụ nữ
    3. Định kiến giới trong tư duy cụ thể
    3.1. So sánh phẩm chất, năng lực của cán bộ Đ/H/L là nữ sinh viên và nam sinh viên
    3.2. Đánh giá về đội ngũ lãnh đạo đất nước bằng cách cho điểm hai đối tượng: nam giới và phụ nữ
    3.3. Mong muốn của sinh viên về tỷ lệ nữ bộ trưởng hợp lý
    3.4. Tiêu chí lựa chọn sinh viên vào Ban chấp hành Đ/H/L
    4. Một số nguyên nhân nhìn từ góc độ lý thuyết học tập- xã hội

    C. Kết luận


    Tính cấp thiết của đề tài
    1. Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Do đó, từ trước đến nay vấn đề phụ nữ luôn được nhiều nhà khoa học quan tâm , nghiên cứu. Xã hội càng phát triển, vấn đề phụ nữ càng trở nên quan trọng. Địa vị của phụ nữ trong xã hội có thể xem như là thước đo trình độ văn minh của một đất nước.
    Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng quốc tế đóng vai trò cơ bản trong việc đạt tới bình đẳng giới. Những năm qua xã hội đã thu được những kết quả to lớn trong vấn đề này. Các hội nghị của phụ nữ quốc tế như ở Mexico (1975), Nairobi (1985) và Bắc Kinh (1995) bản thân chúng là những thức đo về sự trao quyền cho phụ nữ. Tuy vậy vẫn còn một số thách thức quan trọng:
    ã Tác động về giới của các chính sách vĩ mô và chính sách ngành cụ thể là gì? Các phản ánh chi tiêu công cộng có thể thúc đẩy hay cản trở sự bình đẳng giới và hiệu quả kinh tế như thế nào? Làm thế nào để hiểu biết sâu sắc hơn mối quan hẹ bình đẳng giới để phản ánh mối quan hệ đó trong các quyết định chính sách ? Còn nhiều vấn đề chưa biết hoặc chưa hiểu rõ, đòi hỏi phải thu nhập thêm và tốt hơn các dữ liệu để phân tích
    ã Càng ngày người ta càng thấy rằng xem xét quan hệ giới trong xã hội không chỉ dừng ở chỗ xem các chính sách và chương trình tác động ra sao đến những yếu tố phát triển thông thường (giáo dục, sức khoẻ, lực lượng lao động) mà quan trọng hơn phải xem xét các hình thức can thiệp cụ thể đã nâng cao thế nào quyền tự chủ, khả năng lãnh đạo và tiếng nói của phụ nữ, kể cả trong gia đình và trong xã hội. Để hiểu rõ cách can thiệp nào là hiệu quả nhất nhằm đạt được điều này, cần sự phân tích giới sâu sắc hơn.
    Ở Việt Nam, về vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội có hai cách đánh giá trái ngược nhau:
    _Về cơ bản phụ nữ có địa vị bình đẳng với nam giới do đặc điểm của văn hoá Việt Nam – nền văn hoá Đông Nam Á, do nhu cầu cuộc sống và và hoạt động sản xuất của các gia đình trồng lúa nước, do hoàn chiến tranh kéo dài, người chồng luôn vắng nhà, công việc sản xuất và nuôi con, chăm sóc cha mẹ già giao cho người vợ đảm nhận. Vì thế người phụ nữ có vai trò, vị trí thật sự quan trọng trong gia đình (họ có quyền và được kính nể)
    _ Phụ nữ việt nam về cơ bản vẫn ở vào địa vị phụ thuộc người chồng và chịu sự bất bình đẳng trong cả gia đình và ngoài xã hội, do ảnh hưởng của Nho giáo kéo dài nhiều năm ở nước ta và chiếm vị trí quốc giáo. hiện nay kết quả các cuộc điều tra Xã hội học về sự bình đẳng giới trong gia đình vẫn chứng minh vị tí thấp kém của người phụ nữ so với nam giới (nam giới nắm quyền chủ hộ, quyết định những công việc quan trọng trong gia đình, bạo lực của người chồng với người vợ vẫn tồn tại khá phổ biến).
    Như vậy việc đánh giá mức độ ảnh hưởng của Văn hoá bản địa và ảnh hưởng của Khổng giáo đối với gia đình Việt nam hiện nay vẫn còn là vấn đề tranh cãi chưa thể kết luận được.
    (“Gia đình Việt Nam ngày nay”- T143- GS Lê Thi )
    Bình đẳng giới là một nội dung của tiến bộ xã hội, là một nguyên tắc cơ bản của Đảng và Chính phủ Việt nam. Sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với vấn đề này trong vài thập niên vừa qua thể hiện qua nhiều chỉ thị nghị quyết riêng cho phụ nữ như:
     Nghị quyết 176/ HĐBT về phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa – Hà nội 24/12/1984
     Quyết định 163/ HĐBT về tăng cường vai trò của Hội LHPN trong tham gia quản lý nhà nước – Hà nội 1989
     Nghị quyết 04/ NQ- TW của Bộ Chính Trị về “Đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”- Hà Nội 12/7/1993
     Chỉ thị 37 –CT/ TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới – Hà nội 16/5/1994
    Nghị quyết 04-NQ-TW đã khẳng định cần tăng số lượng nữ trên các vị trí quyền lực ở mọi lĩnh vực trong các ban của Đảng và trong Chính phủ. Nghị quyết cũng nói rằng cần tập trung nỗ lực đấu tranh với việc phân biệt đối xử và không tôn trọng phụ nữ đặc biệt là tại nơi làm việc.
    Đáp ứng đòi hỏi thực tiễn cuả đất nước là tăng trưởng kinh tế song song với tiến bộ xã hội, các hoạt động của Hội LHPNVN, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Trong lĩnh vực xã hội học về giới, vấn đề phụ nữ đã được nghiên cứu ở nhiều khía cạnh như: Vấn đề công bằng xã hội và hội nhập xã hội của phụ nữ , vấn đề chính sách đối với phụ nữ, vấn đề dân số và phụ nữ, vấn đề xoá đói giảm nghèo và phụ nữ, vấn đề giáo dục, truyền thông đại chúng và phụ nữ . Trong đó vấn đề hội nhập xã hội của phụ nữ tỏ ra nổi bật trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước. Rõ ràng việc chia sẻ trách nhiệm, quyền lợi của phụ nữ và nam giới trong công việc điều hành xã hội là xu thế tất yếu của xã hội hiện đại.
    2. Giới và các nghiên cứu xã hội học về giới ở Việt Nam
    Trong các nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vấn đề phụ nữ và giới được xem xét lý giải từ nhiều góc độ khác nhau và rất khó tách bạch đâu là nghiên cứu thuần tuý phụ nữ học và đâu là nghiên cứu thuần tuý khoa học về giới.
    Khoa học về giới nói chung, XHH về giới nói riêng ở Việt Nam lấy lý luận và quan điểm Macxit về “giải phóng phụ nữ” và bình đẳng nam nữ làm cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để xem xét và giải quyết những vấn đề nảy sinh.
    Trong lĩnh vực XHH về hội nhập xã hội của phụ nữ, một số tác giả uy tín có nhiều công trình nghiên cứa là Trần Thị Vân Anh, Lê Thi, Lê Thị Quý, Lê Ngọc Hùng, Hoàng Bá Thịnh .Một số công trình đáng chú ý là :
     “Vấn đề đào tạo việc làm, tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay” ( Lê Thi –HN-1991)
     “Phụ nữ, giới và phát triển” ( Trần Thị Vân Anh – Lê Ngọc Hùng. NXB Phụ nữ, Hà Nội 1996)
     “ Đánh giá thực trạng vấn đề giới trong hệ thống tổ chức nhà nước ở Vụ tổ chức cán bộ các bộ ngành và ban tổ chức chính quyền tỉnh, thành phố “( Ban tổ chức cán bộ chính phủ- Hà Nội 3/1998)
     “Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ ở cơ sở “ –Trung tâm hỗ trợ giáo dục và nâng cao năng lực cho phụ nữ -Hà nôi, 6/1999
     “Xã hội học về giới phát triển “ – Lê Ngọc Hùng – Nguyễn Thị Mỹ Lộc. NXB ĐHQG Hà nội 2000.
    Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra thực trạng đời sống của phụ nữ và sự tham gia của phụ nữ trong quản lý, lãnh đạo đất nước qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu chưa khái quát lên thành những nhận định có tính lý luận để có thể kiểm chứng. Do đó các ý kiến đề xuất, các kiến nghị chưa được thuyết phục để vận dụng trong thực tiễn. Lý do của hạn chế này, theo tôi là :
     Tính mới mẻ của ngành khoa học về giới ở Việt Nam. Khoa học về giới nói chung, xã hội học về giới nói riêng mới chỉ phát triển ở Việt Nam vài chục năm trở lại đây. Điều đó giải thích sự hạn chế nhất định về số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu.
     Sự đầu tư chưa đủ lớn về công sức, tiền của cho những nghiên cứu lý thuyết cũng như nghiên cứu thực nghiệm. Đối với nghiên cứu thực nghiêm, sự hạn chế của số lượng công trình là một nguyên nhân ảnh hưởng đến sự yếu kém trong khái quát lý luận.
    Đặc biệt, đối với lĩnh vực XHH về giới trong lãnh đạo và quản lý, các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào những đối tượng đã là cán bộ tham gia hệ thống quản lý xã hội chính thức mà chưa có những hướng phân tích toàn diện chẳng hạn như định hướng, thái độ, quan điểm giới trong lĩnh vực quản lý học sinh, sinh viên. Sinh viên là bộ phận trí thức trẻ tiên tiến nhất của thanh niên nên để phân tích và dự báo về vai trò giới trong đội ngũ lãnh đạo đất nước không thể bỏ qua lực lượng này. Điều đó cho phép các nghiên cứu thực nghiệm tiếp tục soi rọi vấn đề giới ở những góc độ mới.
     
Đang tải...