Tiểu Luận Vai trò của thực tiễn trong nhận thức. Ý nghĩa phương pháp luận trong học tập và rèn luyện của Sinh

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tên đề tài:
    VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN TRONG NHẬN THỨC. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG HỌC TẬP VÀ RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
    I. Thực tiễn là gì ?


    Phạm trù thực tiễn


    Các nhà duy vật trước Mác đã có công lao lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm, mà trong đó khuyết điểm lớn nhất là không thấy được hoạt động có tính lịch sử - xã hội đối với nhận thức, do đó chủ nghĩa duy vật của họ mang tính chất trực quan. Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không được nhận thức là hoạt động cảm giác được của con người là thực tiễn”.


    Phơbách, nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác, tuy có đề cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông đã coi thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông không hiểu được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với ông chỉ có hoạt động đích thực lý luận mới là quan trọng, mới là hoạt động đích thực của con người.


    Các nhà duy tâm tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người nhưng lại phát triển lên một cách trừu tượng, thái quá. Vì vậy, chủ nghĩa duy tâm cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con người. Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen, nhà triết học duy tâm lớn nhất trước Mác đã có tư tưởng hợp lý sâu sắc là: bằng thực tiễn, chủ thể tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song do quan điểm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng. Đối với Hêghen, thực tiễn là “suy lý lôgic“.


    Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn, Mác và Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Các ông không những trực tiếp tham gia vào hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản mà còn dựa trên thực tiễn thực tiễn xã hội để khái quát, phát triển lý luận cách mạng. Nhờ đó, làm cho lý luận gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận của mình, Mác và Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng. Lênin nhận xét rằng: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.


    Ở đây, cần khẳng định rằng, phạm trù thực tiễn không chỉ là phạm trù của lý luận nhận thức mácxít, mà còn là phạm trù xuyên suốt của triết học mácxít, của toàn bộ lý luận chủ nghĩa Mác nói chung.
    Vậy thực tiễn là gì?


    Thực tiễn là những hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.


    Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ là những hoạt động vật chất để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận, hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động cảm tính của con người. Trong hoạt động thực tiễn, con người phải sử dụng các phương tiện, công cụ vật chất, sức mạnh vật chất của mình tác động vào tự nhiên, xã hội để cải tạo làm biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Bằng hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi bản than sự vật trong hiện thực, từ đó làm cơ sở để biến đổi hình ảnh của sự vật trong nhận thức. Do đó, hoạt động thực tiễn là hoạt động có tính năng động, sang tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể, trong đó, chủ thể hướng vào việc cải tạo khách thể; trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy, thực tiễn trở thành mắt khâu trung gian nối liền nhận thức con người với thế giới bên ngoài.


    Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là hoạt động đặc trưng cho con người. Nếu động vật chỉ hoạt động theo bản năng, nhằm thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài, thì con người nhờ vào thực tiễn – như hoạt động có ý thức, có mục đích của mình mà cải tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới và để làm chủ thế giới. Con người không thể thỏa mãn với những gì mà tự nhiên cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn. Con người phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống mình. Để lao động và lao động có hiệu quả, con người phải biết chế tạo công cụ và sử dụng công cụ lao động. Bằng hoạt động thực tiễn, trước hết là lao động sản xuất, con người tạo nên những vật phẩm vốn không có sẵn trong tự nhiên. Không có hoạt động đó, con người và xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...