Luận Văn Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta hiện nay


    Tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là biện chứng khách quan của sự phát triển, tiến bộ xã hội trong thời đại hiện nay. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở kinh tế, là giá đỡ vật chất cho công bằng xã hội; thực hiện công bằng xã hội lại là điều kiện xã hội, động lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một trong những nguyên tắc chủ yếu trong tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Lực lượng nòng cốt để thực hiện sự “kết hợp” ấy chính là nhà nước. Muốn thành công, một mặt, chúng ta phải có quan niệm đúng đắn, khách quan trên quan điểm lịch sử cụ thể về công bằng xã hội; mặt khác, các chính sách, biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội của nhà nước phải hướng vào sự phát triển kinh tế, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế.
    Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một trong những chủ trương chủ yếu trong đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương đó không chỉ thể hiện tính định hướng nhân văn, định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phản ánh nhu cầu phát triển xã hội theo mô hình tiến bộ, phù hợp với thiên niên kỷ mới.
    Tăng trưởng kinh tế là đòi hỏi bức xúc trong thời kỳ đổi mới ở nước ta. Nếu không tăng trưởng kinh tế, chúng ta sẽ bị gạt ra ngoài lề của đời sống kinh tế quốc tế, không thể tồn tại được chứ đừng nói đến phát triển, tiến bộ. Nhưng tăng trưởng kinh tế mà dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo một cách quá đáng, dẫn tới sự phân cực, một mặt, sẽ nẩy sinh những mâu thuẫn, xung đột xã hội cản trở sự phát triển kinh tế; mặt khác, sẽ không đảm bảo được sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng ta chủ trương “giải quyết tốt các vấn đề xã hội, coi đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta. Thực hiện chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”(1).
    Sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội là một yêu cầu khách quan trong sự phát triển của nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là sự thống nhất đó tự nó sẽ diễn ra. Ở đây, vai trò của chủ thể, của nhân tố chủ quan, mà trước hết phải nói đến vai trò của nhà nước có tầm quan trọng đặc biệt trong việc “kết hợp”, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của nhà nước trong điều kiện hiện nay liệu có chủ quan, duy ý chí hay không? Câu trả lời là không, bởi mấy lẽ sau đây:
    Một là, thực tiễn phát triển của lịch sử đương đại không phủ nhận, mà ngược lại, ngày càng khẳng định sự cần thiết của “bàn tay hữu hình”của nhà nước.
    Cũng có người cho rằng, chỉ đứng trên quan điểm mácxít và ở các nước xã hội chủ nghĩa mới khẳng định vai trò của nhà nước trong quản lý, điều tiết nền kinh tế, còn đối với các nước tư bản chủ nghĩa thì ngược lại. Điều đó không hoàn toàn đúng. Lược qua lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản chúng ta thấy, chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ tự do cạnh tranh, khi nhà nước còn đứng bên ngoài kinh tế, bảo vệ cho tự do cạnh tranh dưới sự chi phối của thị trường, đã dẫn đến khủng hoảng và tổng khủng hoảng kinh tế – xã hội trong những năm 20, 30 của thế kỷ XX. Đó là một trong những nguyên nhân của cuộc Chiến tranh thế giới thứ II. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa tư bản cũng đã thấy được sự cần thiết của “bàn tay hữu hình” của nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung. Chủ trương xây dựng “nhà nước phúc lợi” ở các nước tư bản đã chứng tỏ điều đó.
    Nhờ sự can thiệp của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua những cơn khủng hoảng triền miên, thay đổi được bộ mặt của mình và tạo đà cho sự phát triển. Tuy nhiên, do bản chất và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản, vào cuối những năm 70, 80 của thế kỷ XX, sự can thiệp của nhà nước theo mô hình “nhà nước phúc lợi” bắt đầu cản trở sự phát triển kinh tế. Chủ nghĩa tư bản rơi vào tình trạng khủng hoảng mới - khủng hoảng về cơ cấu. Trước tình trạng đó, các đảng bảo thủ cầm quyền đề xuất mô hình “chủ nghĩa tự do mới” (bắt đầu từ luận thuyết của Rigân - cựu Tổng thống Mỹ và Thátchơ - cựu Thủ tướng Anh vào những năm 80). Thực chất của chủ nghĩa tự do mới là đề cao thị trường tự do. Những người theo thuyết này cho rằng, mọi quyết sách phải theo mệnh lệnh của thị trường và phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế.


     
Đang tải...