Tiến Sĩ Vai trò của ASEAN trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 3/12/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC

    MỞ ĐẦU . 1
    CHƯƠNG 1: VẤN ĐỀ LIÊN KẾT KHU VỰC TRONG QUAN HỆ 19
    QUỐC TẾ - LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN Ở ĐÔNG Á . 19
    1.1. Lý thuyết về liên kết khu vực 19
    1.1.1. Khái niệm 19
    1.1.2. Các hình thức liên kết kinh tế . 21
    1.2. Các luận điểm chính về liên kết và hợp tác khu vực trong lý thuyết
    quan hệ quốc tế . 23
    1.2.1. Chủ nghĩa tự do 23
    1.2.2. Chủ nghĩa Kiến tạo . 29
    1.2.3. Chủ nghĩa khu vực mới 33
    1.3 Lý luận về vai trò của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế 36
    1.4 Thực tiễn hợp tác và liên kết khu vực Đông Á từ sau Chiến tranh
    thế giới thứ Haiđến nay 40
    1.4.1 Thực tiễn hợp tác khu vực trước 1997 . 40
    1.4.2. Hợp tác và liên kết khu vực giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh 42
    1.4.3. Các khuôn khổ hợp tác do ASEAN khởi xướng . 43
    1.4.4. APEC 45
    1.4.5. ASEM 48
    1.4.6. Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) 49
    1.5 Một số đặc điểm chung của các xu hướng liên kết khu vực ở Đông Á
    50
    1.6 Thuận lợi và thách thức của xu hướng gia tăng liên kết ở khu vực 52
    1.6.1.Thuận lợi 52
    1.6.2 Hạn chế và thách thức . 54
    Tiểu kết: 57
    CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ASEAN TẠO DỰNG VAI TRÒ TRONG 59


    LIÊN KẾT KHU VỰC Ở ĐÔNG Á 59
    2.1 Chính sách của ASEAN đối với liên kết khu vực 59
    2.2 Các nhân tố giúp ASEAN phát huy vai trò ở khu vực 67
    2.2.1. Điều kiện khách quan . 67
    2.2.2. Năng lực của ASEAN . 69
    2.3 Đóng góp của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực 74
    2.3.1. Củng cố hợp tác nội khối, thúc đẩy liên kết khu vực ở Đông Nam
    Á 74
    2.3.1.1. Giai đoạn đầu mới thành lập từ 1967-1999đến khi hoàn tất mở
    rộng thành viên 74
    2.3.1.2. Đẩy mạnh hợp tác và liên kết sau khi hoàn tất mở rộng thành
    viên từ 1999-2003 78
    2.3.1.3. Xây dựng Cộng đồng ASEAN . 81
    2.3.2. Mở rộng quan hệ đối ngoại, phát huy vai trò trong thúc đẩy hợp
    tác Đông Á 84
    2.3.3. Vai trò tích cực của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực ở
    Đông Á 85
    2.3.3.1. Ý tưởng ban đầu về Khối kinh tế Đông Á (EAEC) 85
    2.3.3.2Thúc đẩy hình thành và phát triển hai cơ chế chuyên biệt về hợp
    tác Đông Á là ASEAN+3 và EAS 85
    2.3.4.Tạo dựng và thúc đẩy các cơ chế hợp tác về an ninh, các chuẩn
    mực ứng xử . 93
    2.3.5. Vai trò trong thúc đẩy liên kết kinh tế Đông Á . 95
    2.4 Quan điểm của cácnước lớn vềvai trò của ASEANtrong cấu trúc
    hợp tác khu vực Đông Á . 100
    2.5Tác động của các nước lớn đến vai trò của ASEAN . 106
    2.6 Hạn chế của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực 108
    Tiểu kết: 110


    CHƯƠNG 3: TRIỂN VỌNG VAI TRÒ CỦA ASEAN TRONG LIÊN
    KẾT VÀ HỢP TÁC ĐÔNG Á – KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ĐỐI
    VỚIVIỆT NAM 113
    3.1. Triển vọng vai trò của ASEAN trong tiến trình liên kết và hợp tác
    ở Đông Á sau 2015 . 113
    3.1.1. Triển vọng hợp tác và liên kết Đông Á đến 2025 113
    3.1.2. Dự báo vai trò của ASEAN . 115
    3.1.2.1. Các thách thức mà ASEAN phải đối mặt trong tiến trình liên
    kết Đông Á . 115
    3.1.2.2 Triển vọng vai trò của ASEAN trong tiến trình liên kết và hợp
    tác ở Đông Á sau 2015 . 118
    3.2 Kiến nghị chính sách đối với Việt Nam 121
    3.2.1. Khát quát về sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN: . 121
    3.2.1.1. Quyết định gia nhập ASEAN 121
    3.2.1.2. Quá trình tham gia ASEAN từ 1995-2015 124
    3.2.1.3. Lợi ích và hạn chế đối với Việt Nam khi tham gia ASEAN . 128
    3.2.2. Đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy liên kết khu vực Đông Á
    131
    3.2.3. Kiến nghị chính sách đối với Việt Nam 136
    3.2.3.1. ASEAN trong tổng thể chính sách đối ngoại của Việt Nam 136
    3.2.3.2. Định hướng tham gia liên kết khu vực Đông Á, thúc đẩy vai trò
    của ASEAN . 139
    Tiểu kết: 146
    KẾT LUẬN . 148
    DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 152
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 153

    1


    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài
    Được đánh giá là một trong những khu vực phát triển năng động nhất thế
    giới, Đông Á, hay rộng hơn là châu Á-Thái Bình Dương, là nơi hội tụ nhiều nền
    kinh tế lớn và đang nổi lên của thế giới, có vị trí địa chiến lược quan trọng, nơi
    đan xen lợi ích của các cường quốc. Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI,
    Đông Á đang chứng kiến những biến chuyển nhanh chóng, mở ra những cơ hội
    mới song cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho các quốc gia trong khu
    vực. Cùng với xu thế toàn cầu hóa, liên kết khu vực ở Đông Á được đẩy mạnh,
    đặc biệt kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, khi các quốc gia nhận
    thấy sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ hơn nhằm ứng phó với hậu quả của khủng
    hoảng cũng như ngăn ngừa hữu hiệu các nguy cơ khủng hoảng trong tương lai. Sự
    gia tăng nhu cầu lợi ích cả về chính trị và kinh tế đã thúc đẩy việc hình thành và
    phát triển nhiều cơ chế và khuôn khổ tạo điều kiện thúc đẩy đối thoại và hợp tác
    giữa các quốc gia trong khu vực.
    Có lẽ ít có nơi nào trên thế giới lại tồn tại nhiều diễn đàn, cơ chế hợp tác
    đan xen, với nhiều tầng nấc và phạm vi khác nhau như ở Đông Á. Bên cạnh một
    loạt các cơ chế do ASEAN khởi xướng và chủ trì như ASEAN+1, ASEAN+3,
    EAS, ARF, ADMM+ , còn có các khuôn khổ quan trọng khác như APEC,
    ASEM, với mộtđiểm chung là đều có sự tham gia của hầu hết các cường quốc
    trong và ngoài khu vực. Tất cả những cơ chế này tạo nên không gian chung để
    các nước tăng cường đối thoại, xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác trên những
    lĩnh vực có lợi ích, đồng thời chia sẻ quan điểm về các khác biệt, và tìm hướng
    giải quyết các tranh chấp, nếu có.
    Trong bối cảnh xu thế hợp tác và liên kết ở Đông Á ngày càng phát triển
    và mở rộng, nổi lên vai trò được chú ý của ASEAN. Từ một xuất phát điểm
    khiêm tốn, ASEAN đã có những đóng góp được ghi nhận trong việc thúc đẩy
    hợp tác, đối thoại và liên kết không chỉ ở Đông Nam Á mà ở cả khu vực Đông Á
    và Thái Bình Dương. Nhìn vào mạng lưới hợp tác đa phương ở khu vực, dễ dàng 2


    nhận thấy các cơ chế bắt đầu bằng chữ “ASEAN” xuất hiện khá thường xuyên,
    với sự tham dự của nhiều đối tác khác nhau, trong đó có nhiều nước lớn như Mỹ,
    Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, EU, Ấn Độ v.v. Mặc dù hiệu quả của các khuôn khổ
    hợp tác này còn nhận được những đánh giá khác nhau, không thể phủ nhận các
    diễn đàn do ASEAN khởi xướng đã tồn tại và tiếp tục được mở rộng, vẫn thu hút
    được sự tham dự đông đảo và thường xuyên của các nước, nhất là các nước lớn.
    Việc nghiên cứu về vai trò của ASEAN trong các tiến trình hợp tác và liên
    kết ở Đông Á có ý nghĩa quan trọng giúp xác định năng lực và vị trí thực sự của
    tổ chức này ở khu vực, qua đó, làm cơ sở cho việc định hướng chính sách phù
    hợp của Việt Nam khi đã là thành viên ASEAN ở môi trường có tác động trực
    tiếp đến an ninh và phát triển của Việt Nam như Đông Á. Về lý luận, nếu khẳng
    định được vai trò của ASEAN trong thúc đẩy liên kết khu vực sẽ giúp củng cố
    thêm luận điểm của các nhà lý luận theo chủ nghĩa kiến tạo về khái niệm bản sắc
    chung cũng như quá trình hình thành các chuẩn mực trong việc tạo dựng thể chế
    hợp tác ở khu vực. Bên cạnh đó, nếu như vai trò của ASEAN trong liên kết khu
    vực được khẳng định qua nghiên cứu của luận án sẽ đóng góp vào các nghiên
    cứu về vai trò ngày càng gia tăng của các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc
    tế. Chính vì vậy, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Vai trò của ASEAN trong
    tiến trình hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á.” làm luận án tốt nghiệp tiến sĩ
    chuyên ngành Quan hệ Quốc tế sau thời gian làm nghiên cứu sinh tại Học viện
    Ngoại giao.
    2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
    Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu trong nước và ngòai nước
    về chủ nghĩa khu vực và liên kết khu vực nói chung và Đông Á. Tuy nhiên mỗi
    công trình đã công bố đều có mục tiêu nghiên cứu riêng, để triển khai nghiên cứu
    vấn đề được nêu là đề tài luận án, có thể tóm tắt tình hình nghiên cứu như sau:
    2.1. Các công trình nghiên cứu ngoài nước
    - Liên kết khu vực hay các khái niệm tương đồng như chủ nghĩa khu vực,
    hợp tác đa phương ở châu Á cũng như Đông Á là chủ đề ngày càng thu hút sự 3


    quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Các công trình nghiên
    cứu ngoài nước đáng chú ý về vấn đề này có các cuốn sách của một số học giả
    chuyên nghiên cứu về Đông Á nhưRemapping East Asia: constructing a region,
    (Vẽ lại bản đồ Đông Á: xây dựng một khu vực) T. J. Pempel biên tập, Cornell
    University, Ithaca, NY 2005;East Asian Regionalism, (Chủ nghĩa khu vực Đông
    Á, NXB Routledge 2008) của Christopher M. Dent;East Asian Multilateralism,
    (Chủ nghĩa đa phương Đông Á, NXB Đại học Johns Hopkins, 2008, do Kent E.
    Calder và Francis Fukuyama biên tập. Asia’s new multilateralism: Cooperation,
    competition and searching for a community, (Chủ nghĩa đa phương mới ở châu
    Á: Hợp tác, cạnh tranh và tìm kiếm một cộng đồng) do Michael J. Green và
    Bates Gill biên tập, nhà xuất bản Columbia University, 2009;Regionalism in
    East Asia: why it has flourished since 2000 and how far it will go?, (Chủ nghĩa
    khu vực ở Đông Á: tại sao lại nảy nở kể từ 2000 và sẽ đi xa đến đâu?) Richard
    Pomfret, Nhà xuất bản World Scientific, 2010; Routledge Handbook on Asian
    Regionalism (Sổ tay Routledge về Chủ nghĩa khu vực châu Á - NXB Routledge)
    Mark Beeson và Richard Stubbs biên tập; Regional Integration in East Asia,
    (Liên kết khu vực ở Đông Á, NXB Đại học Liên Hợp Quốc 2013) do Satoshi
    Amako, Shunji Matsuoka và Kenji Horiuchi biên tập; Regionalism and
    Globalisation in East Asia, (Chủ nghĩa khu vực và Toàn cầu hóa ở Đông Á,
    NXB Palgrave Macmillan 2007, 2014) của Mark Beeson.
    Trong cuốn Remapping East Asia: constructing a region, T. J. Pempel
    biên tập, Cornell University, Ithaca, NY xuất bản 2005, các tác giả cho rằng hợp
    tác khu vực ở Đông Á đã chín muồi, và hợp tác không chỉ tập trung vào các hoạt
    động liên chính phủ, mà còn bao gồm hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia,
    các tổ chức phi chính phủ và các nhân tố phi nhà nước khác. Tuy nhiên, cuốn
    sách chủ yếu mới dừng lại xem xét chủ yếu hai nhóm đối tượng là chính phủ và
    các tập đoàn/công ty, các tổ chức phi chính phủ mà hầu như chưa đề cập đến vai
    trò của các thiết chế đa phương đang hoạt động rất tích cực ở khu vực và trở
    thành động lực thúc đẩy hợp tác và liên kết Đông Á, trong đó có ASEAN và các 4


    diễn đàn do ASEAN chủ trì. Cuốn Regionalism and globalization in East Asia:
    politics, security and economic development của Mark Beeson, Palgrave,
    Macmillan xuất bản 2007, đãđánh giá tương đối toàn diện về vị trí của Đông Á
    trong các xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đang nổi trội, các tiến trình ẩn chứa
    đằng sau sự phát triển các mối quan hệ kinh tế và an ninh ở khu vực, đề cập khá
    rõ đến các thể chế hợp tác tại Đông Á như APEC, ASEAN, ASEAN+3, ARF và
    EAS, và dự báo về tương lai của Đông Á,đánh giá mặc dù còn những khiếm
    khuyết, xu thế liên kết là tất yếu ở Đông Á. Công trình này của Mark Beeson có
    thể đánh giá là một trong những nghiên cứu tổng hợp có giá trị nhất về liên kết
    khu vực ở Đông Á, song do xuất bản từ 2007 nên còn chưa cập nhật được những
    xu thế thay đổi gần đây ở khu vực, bên cạnh đó, chưa đi sâu phân tích về vai trò
    thực tế của ASEAN trong tổng thể tiến trình liên kết và hợp tác ở Đông Á.
    Trong cuốn “East Asian regionalism”, Christophe M. Dent, nhà xuất bản
    Routledge, 2008, tác giảđem đến một cách nhìn khá rộng về các góc độ của liên
    kết khu vực ở Đông Á, từ các tiến trình liên kết tài chính thông qua ASEAN+3,
    liên kết kinh tế thông qua các FTAs, sự gắn kết giữa các quốc gia thông qua hợp
    tác ứng phó với các vấn đề xuyên quốc gia, đến vai trò của một số tổ chức khu vực
    như ASEAN hoặc diễn đàn APEC v.v. Tuy nhiên, từ những phân tích qua các góc
    độ khác nhau này, Dent chưa tổng hợp được thành một nhận định chung về thực
    trạng hay dự báo về xu thế liên kết khu vực tương lai ở Đông Á, vai trò của
    ASEAN được nhìn nhận ở mức độ nhất định, còn đặt trong bối cảnh hẹp chỉ ở
    Đông Nam Á và chưa phân định rõ ASEAN với các cơ chế do ASEAN chủ trì
    như ASEAN+3 hay EAS khiến người đọc dễ nhầm hiểu đây là các khuôn khổ
    hoàn toàn độc lập với nhau.
    Trong cuốn Regionalism in East Asia: why it has flourished since 2000
    and how far it will go?, Richard Pomfret, Nhà xuất bản World Scientific, 2010,
    tác giả tập trung nhiều hơn vào liên kết kinh tế khu vực ở châu Á. Pomfret nhấn
    mạnh chủ nghĩa khu vực mở là đặc trưng mà châu Á theo đuổi, nhìn nhận sự khác
    biệt giữa khu vực hoá do thị trường dẫn dắt với chủ nghĩa khu vực hình thành 5


    thông qua các thể chế hay chính sách của các quốc gia; cho rằng cuộc khủng
    hoảng 97-98 có tác động quyết định đến tiến trình khu vực hoá và chủ nghĩa khu
    vực ở châu Á.ASEAN cũng như các cơ chế ASEAN+3, ASEAN+6 đóng vai trò
    thúc đẩy xu thế liên kết khu vực mạnh mẽ hơn ở châu Á sau 2000. Hạn chế của
    cuốn sách này ở chỗ tác giả đi quá sâu vào kinh tế mà thiếu vắng một cách nhìn
    rộng và toàn diện hơn đến các khía cạnh như an ninh, chính trị, văn hoá v.v. Vai
    trò của ASEAN mới được nhìn nhận qua góc độ kinh tế là chủ yếu.
    Cuốn Asia’s new multilateralism: Cooperation, competition and searching
    for a community, do Michael J. Green và Bates Gill biên tập, nhà xuất bản
    Columbia University, 2009, nhận định sau nhiều năm liên kết kinh tế được đẩy
    mạnh ở châu Á, thập kỷ gần đây chứng kiến làn sóng hợp tác mới mạnh mẽ, dẫn
    đến sự thay đổi rõ rệt trong cấu trúc khu vực. Cuốn sách này nhấn mạnh nhiều
    hơn đến vấn đề quyền lực, cân bằng quyền lực chứ không phải là các chuẩn mực
    hoặc các thể chếđằng sau liên kết khu vực ở châu Á; cho rằng cấu trúc khu vực ở
    châu Á sẽ dưới dạng nhiều tầng nấc, với các thể chế song phương, tiểu khu vực,
    khu vực và toàn cầu cùng tham gia đan xen; các chính phủ vẫn đóng vai trò là
    đối tượng chơi chính, đặc biệt khi liên quan đến các vấn đề như an ninh hoặc cân
    bằng quyền lực. Mặc dù đưa ra được những phân tích tương đối đầy đủ về chính
    sách của các nước chủ chốt trong khu vực; chỉ ra các thách thức mà khu vực phải
    đối mặt trong quá trình định hình một cấu trúc hợp tác, cuốn sách đã bỏ qua một
    khía cạnh thiết yếu khi đề cập đến hợp tác đa phương ở khu vực: đó là vai trò của
    các thể chế hợp tác. Nhận định của các tác giả còn cần làm rõ hơn nếu chỉ cho rằng
    chủ nghĩa khu vực ở châu Á chỉ là sự kéo dài của các chính sách cân bằng quyền
    lực của các quốc gia mà không xuất phát từ các nhu cầu nội sinh của khu vực.
    Cuốn Routledge Handbook on East Asian Regionalism, Mark Beeson và
    Richard Stubbs biên tập, nhà xuất Bản Routledge 2012, xác định chủ nghĩa khu
    vực ở Đông Á (gồm Đông Bắc Á và Đông Nam Á), khác biệt với chủ nghĩa khu
    vực ở các nơi khác, vì đây là tiến trình do các nhà nước dẫn dắt, tập trung vào
    hợp tác nhiều hơn là liên kết, đề cập đến hợp tác và liên kết trên nhiều lĩnh vực 6


    như kinh tế, chính trị, tài chính, chiến lược, và sự tham gia của một số tổ chức
    khu vực như ASEAN, SCO trong liên kết khu vực ở Đông Á. Tuy nhiên, cũng
    như hạn chế của một số nghiên cứu khác, tác giả đi sâu vào từng khía cạnh cấu
    thành nên liên kết khu vực Đông Á nhưng thiếu sự xâu chuỗi thành một đánh giá
    tổng thể, vai trò của ASEAN chỉ được nhìn nhận như một trong các nhân tố tham
    gia trong tiến trình liên kết khu vực.
    Cuốn Regional integration in East Asia: theoretical and historical
    perspectives”, do Satoshi Amako, Shunji Matsuoka và Kenji Horiuchi biên tập,
    United Nations University Press, 2013, tập hợp các bài nghiên của các học giả
    Nhật Bản về liên kết khu vực ở Đông Á. Cuốn sách chỉ ra rằng liên kết khu vực
    ở châu Á, với những tiến triển ấn tượng kể từ cuối thập niên 90, đangđứng trước
    ngã rẽ mới,Đông Á cần những cách tiếp cận mới cho giai đoạn tiếp theo. Các tác
    giả xem xét thực trạng liên kết khu vực trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, an ninh,
    năng lượng, môi trường và giáo dụctheo chiều dài lịch sử, từ giai đoạn trước
    Chiến tranh thế giới thứ Hai, đến nay, tính đến sự tham gia của 3 đối tượng chính
    là Nhật Bản, ASEAN và Trung Quốc. Hạn chế là cuốn sách chủ yếu đưa ra thực
    trạng, nhìn nhận về tiến trình, chứ chưa chỉ ra được các động lực chính của liên
    kết khu vực Đông Á, các nhân tố tác động và dự báo triển vọng tương lai như
    một nghiên cứu tổng thể cần có. Vai trò của ASEAN chỉ được các tác giả đánh
    giá như một trong 3 đối tượng tham gia chính, và chưa được đi sâu phân tích.
    Bên cạnh đó, có khá nhiều bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu đánh
    giá, phân tích về một hay một số khía cạnh đáng chú ý trong liên kết khu vực
    Đông Á như: Eisuke Sakakibara và Sharon Yamakawa, Regional Integration in
    East Asia: Challenges and Opportunities, (Liên kết khu vực ở Đông Á: Các
    thách thức và cơ hội), World Bank East Asia project, June 2003. Mark Beeson,
    “Rethinking regionalism: Europe and East Asia in comparative historical
    perspective”, (Suy nghĩ lại về chủ nghĩa khu vực: Châu Âu và Đông Á trong so
    sánh tương quan lịch sử) trong Journal of European Public Policy 12,
    6/12/2005; Akihiko Tanaka, Prospects for East Asia Community, (Triển vọng 7


    Cộng đồng Đông Á), Trilateral organisation discussion, 2006; “Building an
    Open and Inclusive Regional Architecture for Asia”, (Xây dựng một kiến trúc
    khu vực mở và thu nạp cho châu Á), Policy Dialogue Brief, The Stanley
    Foundation and Center for Strategic and International Studies, November 2006;
    Richard Weixinghu trong “Building Asia-Pacific Regional Architecture: the
    challenge of hybrid regionalism” 2009 (Xây dựng kiến trúc khu vực châu Á-
    Thái Bình Dương), Brookings Institution; Mark Beeson, “East Asian
    Regionalism and the End of the Asia-Pacific: After American Hegemony”, (Chủ
    nghĩa khu vực Đông Á và sự kết thúc của châu Á-Thái Bình Dương; sau sự bá
    quyền Mỹ), The Asia-Pacific Journal, Vol. 2-2-09, January 10, 2009; Peter
    Drysdale, trong “Positioning Asian Architecture Internationally” (Định vị quốc
    tế Kiến trúc châu Á), East Asia Forum, tháng 11/2011; Tan See Reng, trong
    “Competing visions: EAS in the regional architecture debate” (Tầm nhìn cạnh
    tranh: EAS trong tranh luận về kiến trúc khu vực), RSIS Commentary No.
    164/2011; Cheunboran Chanborey, East Asian Community Building: Challenges
    and future prospects (Xây dựng Cộng đồng Đông Á: Các thách thức và triển
    vọng tương lai), Cambodia Institute for Cooperation and Peace, January 2011.
    Justyna Szczudlik-Tatar, Regionalism in East Asia: A bumpy road to Asian
    Integration (Chủ nghĩa khu vực ở Đông Á: Con đường gồ ghề dẫn đến Liên kết
    châu Á), The Polish Institute for International Relations, Policy Paper No. 16
    (64), June 2013; David Arase, “East Asian Regionalism at a crossroads”, (Chủ
    nghĩa khu vực Đông Á ở ngã rẽ), trong The Journal of Social Science,
    75(2013).Ellen Frost (2014), “Rival Regionalisms and Regional Order: A Slow
    Crisis of Legitimacy”, (Các chủ nghĩa khu vực đối đầu và trật tự khu vực: cuộc
    khủng hoảng từ từ của sự chính danh), The National Bureau of Asian Reseach
    Report No. 48, December 2014. Evan A. Feigenbaum (2015), “The new Asian
    order and how the US fits in”, (Trật tự mới châu Á và làm cách nào để Mỹ tham
    gia vào), Foreign Affairs, 2/2/2015. 8


    Các bài viết kể trên đều đưa ra những đánh giá sâu về từng lĩnh vực, từng
    khía cạnh và nhân tố tác động đến tiến trình liên kết ở Đông Á, xem xét đến vai
    trò của các nước lớn và các tổ chức khu vực, trong đó có ASEAN, nhưng không
    tập trung riêng về vai trò của ASEAN trong tổng quan của liên kết khu vực.
    Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu về ASEAN đã có rất nhiều, nhưng
    chủ yếu tập trung vào lịch sử hình thành, phát triển, các vấn đề đặt ra đối với
    ASEAN, quá trình liên kết khu vực và xây dựng Cộng đồng ASEAN trong khi
    các cuốn sách, bài viết nghiên cứu về vai trò của ASEAN trong liên kết khu vực
    Đông Á chưa nhiều.Một số công trình nghiên cứu tác giả đã tìm được về
    ASEAN và Đông Á có:
    Muthiah Alagappa, edited, Asian Security Order; Instrumental and
    Normative Features-Trật tự an ninh châu Á: khía cạnh công cụ và thực chứng,
    Stanford University Press, 2002;T.J. Pempel, Remapping East Asia: The
    Construction of a Region, Cornell University Press, 2005; David Martin Jones &
    M.L.R Smith, ASEAN and East Asian International Relations, Edward Elgar
    Publishing, 2006; Noel M. Norada, Regional order in East Asia, ASEAN and
    Japan perspectives, (Trật tự khu vực ở Đông Á: góc nhìn của ASEAN và Nhật
    Bản), Edited by Jun Tsunekawa, National Institute for Defense Studies Japan,
    2007; Alice Ba, (Re)Negotiating East and Southeast Asia: Region, Regionalism
    and the Association of Southeast Asian Nations, Stanford University Press 2009
    – (Tái đàm phán Đông Á và Đông Nam Á: khu vực, chủ nghĩa khu vực và Hiệp
    hội các quốc gia Đông Nam Á);Amitav Acharya, Whose ideas matter? Agency
    and Power in Asian Regionalism- (Ý tưởng của ai có ý nghĩa? Tổ chức và quyền
    lực trong chủ nghĩa khu vực châu Á), Cornell University Press, 2009; Ralf
    Emmers edited, ASEAN and the Institutionalisation of East Asia-(ASEAN và
    Thể chế hóa Đông Á), Routledge Publishing 2013; Amitav Acharya,
    Constructing a Security Community in Southeast Asia-(Xây dựng Cộng đồng an
    ninh ở Đông Nam Á), 2nd edition, Routledge, 2013; 9


    Trong cuốn “ASEAN and international relations in East Asia”, Jones và
    Smith chỉ trích sự tồn tại của ASEAN, phê phán vai trò của các quốc gia và hợp
    tác khu vực trong tăng trưởng kinh tế Đông Á, chỉ ra những vấn đề trong cấu
    trúc kinh tế khu vực, dẫn chứng về thất bại của các nước khi ứng phó với khủng
    hoảng tài chính 1997, nhất là vai trò yếu kém của ASEAN, không cho rằng
    ASEAN có “vai trò chính thống” ở cả Đông Nam Á và Đông Á, khi tiềm lực
    kinh tế hạn chế, các mô hình như ASEAN+3 hay thậm chí EAS chỉ là khuôn khổ
    để ASEAN dựa vào các nước lớn, và rằng các nước Đông Nam Á cần Đông Bắc
    Á hơn là ngược lại, ASEAN+3 nên đổi thành 3+ASEAN. Các luận điểm đưa ra
    trong cuốn sách còn gây tranh cãi và đây là một trong số ít những nghiên cứu
    gần như phủ nhận hoàn toàn vai trò của ASEAN ở khu vực.
    Trong cuốn “ASEAN and the institutionalization of East Asia”, Ralf
    Emmers biên tập, các tác giả chỉ ra những điểm mạnh và hạn chế của ASEAN
    trong quá trình xây dựng thể chế ở Đông Nam Á, trong hợp tác đa phương và an
    ninh ở ĐôngÁ và trong thể chế hoá quan hệ giữa các nước lớn. Vấn đề thể chế
    hoá quan hệ giữa các nước lớn, cụ thể là Trung-Nhật-Mỹ được xem như động
    lực chính của tiến trình thể chế hoá các quan hệ quốc tế ở ĐôngÁ, với sự hỗ trợ
    của các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Các tác giả cho rằng sự cam kết của các nước
    lớn mới giúp đảm bảo nỗ lực thúc đẩy hoà bình và an ninh ở ĐôngÁ; cho rằng
    không kết luận ASEAN có đóng một vai trò không thể phủ nhận trong tiến trình
    thể chế hoá Đông Á, nhưng còn nhiều hạn chế. Do tính chất của cuốn sách là
    một tập hợp các bài viết của nhiều tác giả khác nhau, nội dung của từng chương
    tuy đãđi sâu phân tích về từng góc độ của vai trò ASEAN ở Đông Nam Á và
    Đông Á nhưng còn thiếu tính đồng bộ và toàn diện.
    Cuốn “ASEAN Regionalism: cooperation, values and institutionalization”
    của Chistopher Roberts, đã phân tích khá sâu về các yếu tố tác động đến mức độ
    đoàn kết và hợp tác trong ASEAN, những vấn đề khó khăn mà ASEAN đang
    gặp phải, quá trình hình thành các giá trị, chuẩn mực và lợi ích chung ở khu vực,
    các thách thức và cơ hội do chủ nghĩa khu vực và liên kết khu vực ở Đông Nam 10


    Á đang tạo ra. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ tập trung vào nghiên cứu chủ nghĩa khu
    vực do ASEAN thúc đẩy ở Đông Nam Á, chứ chưa xem xét vai trò rộng hơnc ủa
    ASEAN trong liên kết khu vực ở Đông Á.
    Học giả chuyên nghiên cứu về ASEAN và đến từ chính khu vực Amitav
    Acharyađã có nhiều công trình chuyên sâu về ASEAN, trong đó cuốn đáng chú ý
    nhất là:Constructing a Security Community in Southeast Asia-Xây dựng Cộng
    đồng an ninh ở Đông Nam Á, 2nd edition, Routledge, 2013. Cuốn sách này đã
    chỉ ra bản chất và phương thức hoạt động của ASEAN, phân tích sự hình thành
    và vận động của các chuẩn mực dưới hình thức Phương cách ASEAN và quá
    trình kiến tạo bản sắc ở khu vực.Amitav Acharya nghiên cứu sâu về quá trình
    ASEAN xử lý các vấn đề nảy sinh về an ninh ở khu vực, trong nỗ lực xây dựng
    một cộng đồng an ninh ở Đông Nam Á theo khái niệm an ninh toàn diện. Qua
    đó, Amitav chỉ ra rằng những chuẩn mực mà ASEAN đã tạo dựng được sẽ là nền
    tảng quan trọng cho việc định hình vai trò của ASEAN trong chủ nghĩa đa
    phương khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đúng với tên gọi của cuốn
    sách, tác giả mới đi sâu vào khía cạnh an ninh và chưa đánh giá bản chất hoạt
    động của ASEAN dưới nhiều lăng kính khác, nhất là kinh tế, vốn không kém
    phần quan trọng. Hơn nữa, vai trò, vị trí của ASEAN ở khu vực rộng hơn ngoài
    Đông Nam Á mới chỉ được tác giảđề cập một phần trong khuôn khổ những đóng
    góp của ASEAN tại ARF.
    Trong một công trình nghiên cứu chuyên sâu về ASEAN và chủ nghĩa
    khu vực ở Đông Á và Đông Nam Á: (Re)Negotiating East and Southeast Asia:
    Region, Regionalism and the Association of Southeast Asian Nations, Stanford
    University Press 2009 – (Tái đàm phán Đông Á và Đông Nam Á: khu
    vực,chủnghĩa khu vực và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), Alice Ba
    tiếpcậnthuyếtkiếntạo xã hội để lý giải về quá trình ASEAN tạodựng các
    chuẩnmực trong hợp tác khu vực, thúc đẩy văn hóa đốithoại và hình thành các
    thể chế để đóng góp cho việc ổn định quan hệgiữa các quốc gia trong khu vực,
    xây dựngnhững khuôn khổhợp tác ở Đông.Cuốn sách tập trung phân tích về quá 11


    trình ASEAN củng cố và phát huy sức mạnh như một khối thống nhất ở Đông
    Nam Á và nỗ lực thúc đẩy liên kết khu vực của ASEAN. Tuy nhiên, phần nghiên
    cứu về vai trò của ASEAN trong liên kết Đông Á chỉ mới dừng ởđánh giá về tác
    động của khủng hoảng tài chính 1997-1998 thôi thúc ASEAN khởi xướng tiến
    trình ASEAN+3 cũng như vai trò của ARF và quan hệ giữa ASEAN với các
    nước lớn ở khu vực.
    Richard Stubbs (2006), “Power to the weak: ASEAN’s role in East Asian
    Regionalism”, (Quyền lực cho kẻ yếu: vai trò của ASEAN trong chủ nghĩa khu
    vực Đông Á) paper presented at the “Comparative Regional Integration - Towards
    a Research Agenda” Workshop of the ECPR - Nicosia, Cyprus, 25-30 April, 2006.
    Amitav Acharya, “East Asia’s New Multilateralism: Hopes and Illusions,” 2007,
    (http://amitavacharyaacademic.blogspot.com/2007/03); Alice D. Ba, “ASEAN in
    East Asia,” (2007), trình bày tạithe ASEAN 40th Anniversary Conference, 7),
    007/03 Hopes and Illusions,

    2007 of the ECPR, the ASEAN 40th Anniversary
    Conference, 7), 007/03 Hopes and Illusions,” 2007 of the ECPR - Nicosia,
    CSingapore 31 July – 1 August 2007. Sheldon Simon, “ASEAN and
    Multilateralism: the Long, Bumpy Road to Community”, (ASEAN Contemporary
    Southeast Asia, Vol. 30, No. 2 (2008); Amitav Acharya, “Asian Regional
    Institutions and the Possibilities for Socializing the Behavior of States,” (Các thể
    chế khu vực châu Á và khả năng xã hội hóa hành vi của các quốc gia), Paper
    Prepared for the Institutions for Regionalism Project, Asian Development Bank,
    2009; John Ravenhill, “The 'New East Asian Regionalism': A Political Domino
    Effect,” (Chủ nghĩa khu vực mới ở Đông Á: hiệu ứng Domino chính trị), Review of
    International Political Economy, vol.17, no. 2 (2010); Lee Jones, “Still in the
    Drivers’s seat, But for How long? ASEAN’s capacity for leadership in East Asian
    international relations”, (Vẫn ngồi ở vị trí cầm lái, nhưng trong bao lâu? Khả năng
    lãnh đạo của ASEAN trong quan hệ quốc tế Đông Á), Tạp chí Current Southeast
    Asian Affairs, 2010; Rizal Sukma, “ASEAN and Regional Security in East Asia”,
    (ASEAN và An ninh khu vực ở Đông Á), trong Panorama: Insights into Asian and 12


    European affairs, Konrad Adenauer Stiftung 2010; Kei Koga, “Competing
    Institutions in East Asian Regionalism, ASEAN and the Regional Powers”, (Các
    thể chế cạnh tranh trong chủ nghĩa khu vực Đông Á, ASEAN và các cường quốc
    khu vực), trong Pacific Forum CSIS, Issues and Insights, Vol 10, No. 23, October
    2010; Pek Koon Heng, ASEAN Integration 2030: The US Perspectives, ADBI
    Working Paper Series No. 367, July 2012; Joshua Kurrlantzick, “ASEAN’s Future
    and Asian Integration”, (Tương lai của ASEAN và Liên kết châu Á), bài viết cho
    International Institutions and Global Governance Program, Council on Foreign
    Relations, November 2012;Termsak Chalermpalanupap, “Understanding the
    ASEAN Centrality”, (Tìm hiểu vai trò trung tâm của ASEAN), ASEAN Insights,
    Vol. 4, Tháng 9/2014; Fithra Faisal Hastiadi (2014), “ASEAN+3: the way
    forward”, (ASEAN+3: con đường lên phía trước), ASEAN Insights,Vol. 4,
    September 2014. See Seng Tan (2014), “ASEAN, going it alone? Not quite”
    (ASEAN, đi một mình? Không hẳn), E-international relations,
    2/7/2014);Richard Stubbs (2014), “ASEAN’s leadership in East Asian region
    building, strength in weakness”, (Vai trò lãnh đạo của ASEAN trong xây dựng
    khu vực Đông Á: thế mạnh trong điểm yếu), The Pacific Review, 2014/8/8;
    David M. Jones (2015), “ASEAN and the Limits of Regionalism in Pacific
    Asia”, (ASEAN và những hạn chế của chủ nghĩa khu vực ở Châu Á-Thái Bình
    Dương), Robert Schuman Centre for Advanced Studies Research Paper No.
    RSCAS 2015/16.Alagappa, M. (2015), “Community-building: ASEAN’s
    millstone?”, (Xây dựng cộng đồng: cối xay đá của ASEAN?) in PacNet No. 18,
    Pacific Forum CSIS, 19/3/2015.Benjamin Ho (2015), “The Future of ASEAN
    Centrality in the Asia Pacific Regional Architeture”, (Tương lai vai trò trung tâm
    của ASEAN trong cấu trúc khu vực châu Á – Thái Bình Dương), Yale Journal of
    International Affairs, 24/6/2015.
    Trong toàn bộ các bài viết kể trên, các tác giả đãđưa ra nhiều đánh giá về
    thực trạng, quá trình vận động và xu hướng phát triển của liên kết khu vực ở Đông
    Á và về ASEAN, ghi nhận vai trò tích cực và nòng cốt của ASEAN trong các tiến 13


    trình hợp tác khu vực. Tuy nhiên, trong phạm vi những gì đãđọc, tác giả chưa thấy
    có 1 công trình nào dành riêng phân tích tổng hơp và chuyên sâu về vai trò của
    ASEAN trong hợp tác và liên kết khu vực. ASEAN được đề cập không ít trong
    gần như hầu hết các cuốn sách và bài viết về hợp tác ở khu vực này, nhưng chủ
    yếu chỉ qua những đánh giá ngắn về động thái của ASEAN qua các diễn biến như
    mở rộng EAS, lập ADMM+ chưa có đánh giá toàn diện về toàn bộ quá trình
    tham gia và đóng góp của tổ chức này trong liên kết khu vực ở Đông Á.
    2.2 Các công trình nghiên cứu trong nước
    Các học giả trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về liên kết
    Đông Á và ASEAN, trong đó, đáng kể đến là: Nguyễn Duy Quý, Tiến tới một
    ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển bền vững, NXB Chính trị Quốc gia 2001;
    Trần Khánh (chủ biên), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nhà xuất
    bản Khoa học xã hội 2002; Vũ Dương Ninh, Việt Nam – ASEAN, Quan hệ song
    phương và đa phương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội 2004; Phạm Đức
    Thành (Chủ biên), Liên kết ASEAN trong thập niên đầu thế kỷ XXI, NXB KHXH,
    HN – 2006; Phạm Đức Thành, Trần Khánh (đồng chủ biên), Việt Nam trong
    ASEAN: Nhìn lại và hướng tới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội 2006;
    Nguyễn Thu Mỹ, Hợp tác ASEAN+3, Quá trình và phát triển, Thành tựu và triển
    vọng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội 2007; Liên kết ASEAN hiện nay và
    sự tham gia của Việt Nam, (Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Hữu Cát, Nguyễn Thị
    Quế đồng chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008.Hoàng Khắc Nam, Hợp
    tác đa phương ASEAN+3, vấn đề và triển vọng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
    Thành phố Hồ Chí Minh, 2008. Lê Hồng Hà, ASEAN: từ Hiệp hội đến Cộng đồng,
    những vấn đề nổi bật và tác động đến Việt Nam, Nhà xuất bản báo Nhân Dân
    2012; Lê Hồng Hà, ASEAN từ hiệp hội đến cộng đồng
    – những vấn đề nổi bật và
    tác động đến Việt Nam, Nhà xuất bản báo Nhân Dân, 2012. Trương Duy Hòa
    (chủ biên), Hiện thực hóa Cộng đồng ASEAN, Bối cảnh, tác động và những vấn
    đề đặt ra, Nhà xuất bản Khoa học và Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Đông
    Nam Á, 2013; Trần Khánh (chủ biên), Hiện thực hóa Cộng đồng Chính trị-An 14


    ninh ASEAN: Vấn đề và triển vọng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2013; Nguyễn
    Văn Hà (chủ biên), Hiện thực hóa Cộng đồng Kinh tế ASEAN và tác động đến
    Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội2013; Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Anh
    Thu, Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế, Nhà xuất bản
    Đại học Quốc gia Hà Nội 2015.
    Các bài viết đáng chú ý có: Hoàng Khắc Nam: “Hợp tác Đông Á – những
    trở ngại của lịch sử”, Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5 (47),
    2003; “Quá trình xây dựng thể chế khu vực Đông Á và ASEAN+3”, Tạp chí
    Khoa học, chuyên san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập XIX, số 3, 2003.
    Nguyễn Duy Dũng, “Xây dựng Cộng đồng Đông Á: Những thách thức chủ yếu”.
    Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7/67, 2006. "Cộng đồng ASEAN: Trong
    nhận thức và quan điểm của Việt Nam", PGS,TS Nguyễn Thu Mỹ - Viện Nghiên
    cứu Đông Nam Á và "Việt Nam và công cuộc xây dựng Cộng đồng ASEAN",
    Nguyễn Thu Mỹ + Lê Phương Hoà, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số
    7/2008.Nguyễn Thu Mỹ, “Môi trường an ninh Đông Á những năm đầu thế kỷ
    XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2007. Nguyễn Thu Mỹ, “Phản
    ứng chính sách của các nước ASEAN trước sự biến động địa chính trị Đông Á
    trong thập niên đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2010.
    Luận Thùy Dương, “Vai trò của ASEAN trong việc xây dựng cộng đồng Đông
    Á”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 57, 2004. Luận Thuỳ Dương, “Tiến trình xây
    dựng Cộng đồng Đông Á: Động lực và trở ngại”. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số
    64, 2008. Phạm Văn Minh, “Sự chuyển dịch địa-chính trị khu vực Đông Á trong
    thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Thông tin nghiên cứu quốc tế,
    số 1/25, 2009; Vũ Lê Thái Hoàng, “Đặc điểm và xu hướng biến động của trật tự
    Đông Á hiện nay”, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2010. Trần Khánh,
    “Lợi ích chiến lược của các nước lớn tại Đông Á trong thập niên đầu thế kỷ XXI”,
    Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 4/2010. Trần Khánh (2013),“Vai trò của
    ASEAN trong kiến tạo cấu trúc an ninh mới ở khu vực châu Á-Thái Bình
    Dương”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Số 1, 2013. Nghiêm Tuấn Hùng 15


    (2014), “Phản ứng của khu vực Đông Nam Á trước sự trỗi dậy của Trung Quốc
    những năm đầi thế kỷ XXI”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế& chính trị thế giới, số
    4 (216)/2014. PGS TS Trần Minh Sơn, “Những chuyển động trong cấu trúc an
    ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
    22/1/2015; Trần Khánh, Hồ Thị Ái Phương (2015), “Triển vọng ASEAN và sự chi
    phối của các nước lớn-Những thách thức đối với Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu
    Đông Nam Á, số 4(181), 2015.
    Các công trình nghiên cứu kể trên của các tác giả trong nước đã cung cấp
    những góc nhìn khá sâu về chủ nghĩa khu vực và các thể chế đa phương ở Đông
    Á về ASEAN và quá trình xây dựng, phát triển của Cộng đồng ASEAN, các tiến
    trình hợp tác khu vực ở Đông Á do ASEAN khởi xướng như ASEAN+3, với
    những đánh giá và phân tíchtrên quan điểm của Việt Nam. Các công trình nghiên
    cứu kể trên đều ít nhiều đề cập đến sự tham gia và đóng góp của ASEAN trong
    hợp tác và liên kết khu vực ở Đông Á nhưng chưa dành hàm lượng phân tích
    nhiều về ASEAN như một thực thể có vai trò trong tiến trình liên kết khu vực.
    Hơn nữa, chưa có công trình nào đi sâu vàđưa ra được bức tranh toàn cảnh về vị
    trí, vai trò của ASEAN trong tổng thể tiến trình hợp tác và liên kết ở Đông Á.
    Các vấn đề được nêu chỉ là một hoặc một số mảng nổi lên trong tiến trình liên
    kết khu vực như hợp tác về an ninh, về kinh tế, về ứng phó với các thách thức
    xuyên quốc gia; một số cơ chế đáng chú ý trong đó ASEAN đóng vai trò chủ đạo
    như ASEAN+3, ARF v.v. nhưng chưa được xâu chuỗi với nhau thành một góc
    nhìn tổng thể. Cùng với diễn biến nhanh và đa dạng của xu thế hợp tác đa
    phương ở khu vực, những tiến triển mới cũng chưa thể được cập nhật đầy đủ
    trong các công trình nghiên cứu xuất bản gần đây.
    Điều này khiến tác giả quyết định đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về vai trò
    của ASEAN trong hợp tác và liên kết khu vực Đông Á. Đây cũng là vấn đề
    mang tính thời sự, được sự quan tâm và chú ý của nhiều nhà nghiên cứu chính
    sách cũng như các học giả, trong bối cảnh xu thế hợp tác ở Đông Á ngày càng
    gia tăng. Dự kiến luận án sẽ kế thừa và tiếp nối các công trình nghiên cứu đã có, 16


    sử dụng các lý luận liên quan phù hợp để phân tích và chứng minh vai trò của
    ASEAN trong liên kết khu vực Đông Á.
    3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    - Mục đích: Làm rõ vai trò của ASEAN trong tiến trình hợp tác, liên kết
    tại Đông Á, nhất là giai đoạn kể từ sau năm 1997 qua các câu hỏi cụ thể sau:
    + Liệu ASEAN có vai trò đối với tiến trình hợp tác và liên kết ở khu vực
    Đông Á hay không?
    + Dựa trên kết quả nghiên cứu, Việt Nam cần phải điều chỉnh gì để thúc
    đẩy vai trò của ASEAN ở khu vực Đông Á và tranh thủ các lợi ích cho đất nước?
    - Nhiệm vụ nghiên cứu:
    i) Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của liên kết khu vực ở Đông
    Á và vai trò của ASEAN với tư cách nhóm các quốc gia vừa và nhỏ.
    ii) Đánh giá quá trình vận động của ASEAN để tạo lập vai trò trong tiến
    trình này.
    iii) Dự báo triển vọng vai trò của ASEAN trong liên kết khu vực ở Đông
    Á, và kiến nghị chính sách đối với Việt Nam.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là vai trò của ASEAN trong
    thúc đẩy liên kết khu vực, đối tượng nghiên cứu kiến nghị chính sách là định
    hướng chính sách đối ngoại của Việt Nam khi tham gia ASEAN cũng như trong
    các tiến trình hợp tác và liên kết ở khu vực giai đoạn tiếp theo.
    - Phạm vi không gian là kKhu vực Đông Á theo phạm vi địa lý mở rộng,
    tức là không chỉ bó hẹp giữa các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á, mà bao
    gồm cả các nước có lợi ích và ảnh hưởng ở khu vực, cụ thể là các nước đang
    tham gia vào tiến trình hợp tác Đông Á do ASEAN chủ trì gồm:ASEAN và 8
    nước Đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Mỹ, Australia và
    New Zealnd.
    - Phạm vi thời gian: từ năm 1997 khi ASEAN khởi xướng khuôn khổ hợp
    tác ASEAN+3, cho đến năm 2015 (mốc hình thành Cộng đồng ASEAN), dự báo
    đến 2020. 17


    5.Phương pháp nghiên cứu
    Các phương pháp chủ yếu được áp dụng là phương pháp lịch sử, hệ thống,
    phân tích quá trình, quy nạp và dự báo. Sử dụng tư duy biện chứng, có kết hợp
    giữa so sánh lý thuyết và thực tiễn.
    6.Nguồn tài liệu
    Luận án được dựa trên nguồn tài liệu gốc là nguồn thông tin chính thức từ
    các văn kiện, thỏa thuận, quyết sách của chính tổ ASEAN, phát biểu của Lãnh
    đạo các nước ASEAN, các văn kiện về đường lối, chính sách đối ngoại của Việt
    Nam và phát biểu của Lãnh đạo Việt Nam. Ngoài ra, luận án cũng sẽ sử dụng
    các tài liệu, tìm đọc các công trình khoa học đã công bố viết về ASEAN, về cấu
    trúc khu vực, về Đông Á, của các tác giả trong và ngoài nước.
    7. Những đóng góp của luận án
    - Luận án được hoàn thành dự kiến sẽ đóng góp một góc nhìn khoa học,
    toàn diện hơn về vai trò của ASEAN trong các tiến trình hợp tác và liên kết khu
    vực ở Đông Á, dự báo đến 2020 và kiến nghị định hướng chính sách của Việt
    Nam khi tham gia ASEAN nhằm thúc đẩy vai trò của ASEAN và khai thác tối đa
    các lợi ích mang lại từ việc ASEAN phát huy vai trò ở khu vực.
    - Về học thuật: luận án sẽ góp phần củng cố thêm luận điểm đãđược nhiều
    nhà lý luận theo trường phái tự do thể chế và chủ nghĩa kiến tạo áp dụng để giải
    thích về các vấn đề hợp tác khu vực; đồng thời tiếp tục phát triển và bổ sung cho
    các công trình nghiên cứu đã có trước đó về vai trò của các nước vừa và nhỏ
    trong quan hệ quốc tế.
    - Về chính sách: trong bối cảnh mốc hình thành Cộng đồng ASEAN đang
    đến gần, các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng cần xây dựng một
    định hướng chính sách cho giai đoạn phát triển mới của ASEAN sau 2015.
    Riêng đối với Việt Nam, trong bối cảnh triển khai Nghị quyết hội nhập toàn diện
    do Bộ Chính trị thông qua năm 2012, chuẩn bị cho xây dựng đường lối chính
    sách đối ngoại tại Đại hội XII, luận án mong muốn sẽ đóng góp những kiến nghị
    chính sách mang tính khoa học và toàn diện cho sự tham gia của Việt Nam trong

    thúc đẩy vài trò của ASEAN trong tiến trình liên kết và hợp tác Đông Á trong
    tương lai.
    - Về đào tạo: luận án có thể được coi là một nguồn tài liệu tham khảo cho đào
    tạo ở hệ cử nhân, sau đại học cho các chuyên đề về ASEAN và liên kết khu vực.
    8.Bố cục của luận án
    Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương chính như sau:
    Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của liên kết khu vực ở Đông Á.
    Chương này tập trung làm rõ: i) Cơ sở lý luận của liên kết khu vực, vai trò của
    các nước vừa và nhỏ trong quan hệ quốc tế, các tiêu chí đánh giá vai trò của một
    tổ chức khu vực ii) Tiến trình liên kết khu vực ở Đông Á từ sau Chiến tranh
    Lạnhđến 2015, làm nền tảng cho phân tích ở chương sau về vai trò của ASEAN
    trong tiến trình này.
    Chương 2: Quá trình ASEAN tạo dựng và khẳng định vai trò trong
    hợp tác, liên kết khu vực
    Chương 2 đi sâu vào phân tích quá trình vận động của ASEAN để tạo dựng vai
    trò trong hợp tác và liên kết ở khu vực Đông Á thông qua các giai đoạn lịch sử
    cụ thể, đồng thời, rút ra những nhân tố cơ bản giúp ASEAN có được vai trò này.
    Chương 3: Triển vọng liên kết ở Đông Á, vai trò của ASEAN và các
    khuyến nghị đối với Việt Nam
    Chương 3, trên cơ sở dự báo về chiều hướng hợp tác và liên kết ở Đông Á, đưa
    ra các kịch bản về triển vọng vai trò của ASEAN trong tiến trình này trong tương
    lai, qua đó, đề xuất các khuyến nghị chính sách đối với Việt Nam.
    Do điều kiện thời gian và hoàn cảnh, năng lực có hạn, Luận án “Vai trò
    của ASEAN trong tiến trình hợp tác và liên kết khu vực Đông Á” chắc chắn
    không tránh khỏi các khiếm khuyết, kính mong các Thầy cô trong Hội đồng
    quan tâm góp ý để em có thể tiếp tục bổ khuyết và hoàn thiện thêm nội dung
    Luận án.
     
Đang tải...