Luận Văn Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Na

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Ác Niệm, 13/12/11.

  1. Ác Niệm

    Ác Niệm New Member

    Bài viết:
    3,584
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Luật tố tụng dân sự (TTDS) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Là luật hình thức độc lập mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật nội dung khác nhau như: Luật Dân Sự, Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, Luật Thương Mại, Luật Lao Động Nhưng những luật nội dung này đều mang những đặc trưng cơ bản của Luật Dân Sự như tính bình đẳng, tự quyết và thoả thuận giữa các bên đòi hỏi Luật tố tụng dân sự cũng phải thể hiện được bản chất tương ứng trong việc đánh giá và xác định vai trò quan trọng của các đương sự, đặt họ vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp Việt Nam mà Đảng và Nhà Nước đã đề ra trong giai đoạn hiện nay.
    Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán quyết giải quyết hoặc chấm dứt (bãi nại) tranh chấp. Trong đó, hoạt động chứng minh là hoạt động cơ bản, trước tiên và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Hoạt động này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như là căn cứ để toà án đưa ra các phán quyết của mình. Có thể nói mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của toà án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó.
    Kế thừa có chọn lọc các quy của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996) không thể phủ nhận về tính hoàn thiện và phát triển đúng đắn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Mặc dù vậy, là một ngành luật còn non trẻ, kinh nghiệm lập pháp còn thiếu trong khi các quan hệ xã hội lại phát sinh và thay đổi một cách nhanh chóng nên qua một thời gian áp dụng Bộ luật đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý nói chung và cách nhìn nhận về vai trò, vị trí của đương sự trong hoạt động chứng minh nói riêng. Một mặt không phản ánh được đúng đắn bản chất của tố tụng dân sự, không phát huy được vai trò chủ động và tích cực của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, mặt khác đã tạo gánh nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng khi phải làm thay nhiều nhiệm vụ của đương sự. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng tồn đọng các vụ việc dân sự tại toà án ngày càng nhiều, tính minh bạch và thiếu khách quan còn phổ biến thể hiện ở việc các toà án cấp trên huỷ, sửa bản án của các toà cấp dưới với số lượng lớn.
    Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã đi vào tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành, các quy định của nhà nước qua từng thời kỳ, tham khảo luật tố tụng dân sự của một số nước trên thế giới để hoàn thiện đề tài “ Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” với mong muốn góp phần hoàn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn đối với chế định quan trọng này.
    2. Đối tượng nghiên cứu
    Là một vấn đề khó trong tố tụng dân sự, hoạt động chứng minh còn nhiều điểm đang tranh luận cũng như chưa thống nhất nên trong phạm vi còn hạn chế về kỹ năng cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, tác giả không có tham vọng nghiên cứu tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề chứng minh nói chung. Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể là những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, từ đó chỉ rõ vai trò trung tâm và quan trọng nhất của đương sự.
    Trong thực tiễn, khái niệm về đương sự trong tố tụng dân sự còn có nhiều tranh luận về mặt nội hàm (như ngoài nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn có người yêu cầu, người bị yêu cầu, người liên quan trong việc dân sự, người kế thừa quyền và nghĩa vụ ) [1]. Tuy nhiên, theo quy định của Luật Tố Tụng Dân Sự 2005 thì đương sự là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan – những tư cách tố tụng chỉ được xác lập khi có vụ án dân sự xảy ra. Mặt khác, trong thủ tục “phi tụng” – giải quyết yêu cầu trong tố tụng dân sự, trong nhiều trường hợp người bị yêu cầu không xuất hiện (yêu cầu tuyên bố một người chết, mất tích ) nên tính chất đối lập trong tố tụng (đối tụng) giữa các bên không được thể hiện rõ ràng cũng như vai trò chứng minh của đương sự rất mờ nhạt. Vì lẽ đó, đề tài đi vào nghiên cứu, đánh giá những vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh trong việc giải quyết vụ án dân sự chứ không phải toàn bộ vụ việc dân sự (bao gồm yêu cầu về việc dân sự và vụ án dân sự )
    Để làm nền tảng cho việc đánh giá, nhận xét được khách quan, đề tài tìm hiểu các quy định của hoạt động tố tụng về lĩnh vực dân sự của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, đối chiếu, so sánh các quy định trong luật tố tụng của một số nước có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới trong cùng lĩnh vực.
    Khảo sát những số liệu thực tế nhằm bổ trợ cho những vấn đề lý luận.
    3. Mục đích nghiên cứu
    Đề tài đi xây dựng, phân tích những khái niệm cơ bản như tố tụng dân sự, đương sự, đặc điểm, bản chất của hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự từ đó, chỉ rõ vai trò quan trọng, trung tâm của đương sự trong hoạt động này dựa trên sự so sánh, đối chiếu với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh. Phân tích rõ những tác động của xu thế thời đại ảnh hưởng đến vai trò chứng minh của đương, đồng thời đưa ra những luận điểm để giải thích về vai trò quan trọng nhất của đương sự.
    Đề tài hướng đến giải quyết tính thực tế của vấn đề. Sau khi xây dựng và đánh giá về vấn đề lý luận chung, chỉ rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất và ngày càng quan trọng hơn, khái quát những mặt được và những mặt hạn chế của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của đương sự cũng như tạo cơ chế để họ có thể thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình, giảm gánh nặng cho hệ thống tòa án.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, thống kê
    5. Tình hình nghiên cứu
    pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết các vấn đề dân sự đã được xây dựng và áp dụng từ lâu nhưng mới chính thức được pháp điển hóa một cách có hệ thống và đồng bộ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nên các đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Những bài viết, công trình mang tính toàn diện và có hệ thống trước đây như“Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ của Vũ Trọng Hiếu (1998), “Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” – Phạm Hữu Thư, tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 9/1998) xây dựng trên Pháp lệnh TTGQVADS (1989), TTGQVAKT (1994) và TTGQTCLĐ (1996) đã hết hiệu lực nên chỉ còn mang tính chất tham khảo. Trong những năm gần đây, có một số bài viết, công trình liên quan như “Các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Công Bình, tạp chí Luật học năm 2005, “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học năm 2004, “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Nguyễn Thị Minh Hằng, luận án tiến sĩ luật học năm 2007 Mặc dù đây là những công trình nhìn nhận các vấn đề về chứng minh ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng là cơ sở tham khảo quan trọng để tác giả có thể hoàn thành tốt phần nghiên cứu của mình.
    6. Khả năng phát triển của đề tài
    Đề tài là công trình nghiên cứu nhìn nhận đầy đủ về vai trò tính chất quan trọng của đương sự trong quá trình chứng minh, phản ánh đầy đủ bản chất của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu một cách toàn diện và quy mô sẽ tạo ra những cơ chế mới phát huy toàn diện tính tích cực của đương sự trong tố tụng dân sự, cán bộ tòa án sẽ không phải mất quá nhiều thời gian cho một vụ việc mà vẫn đảm bảo được sự “tâm phục khẩu phục” của đương sự, giảm đi sự tồn đọng các vụ án dân sự ngày càng nhiều, tăng thêm lòng tin của nhân dân và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
    Bên cạnh đó, theo đề án về việc cải cách cơ cấu của ngành tòa án tại Nghị Quyết số 49- NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong thời gian tới sẽ có 4 cấp tòa án được thành lập là tòa sơ thẩm khu vực, tòa phúc thẩm, tòa thượng thẩm và tòa án nhân dân tối cao. Việc thành lập thêm một cấp tòa án đồng nghĩa với việc phát sinh nhiều hơn các cơ quan, cán bộ, thêm nhiều gánh nặng cho ngân sách nhà nước vốn đã ngày càng eo hẹp. Khi hệ thống tòa án phát triển theo chiều cao thì đề tài đi vào giải quyết vấn đề theo chiều rộng, giảm bớt công việc cho ngành tòa án trao trả về cho phía đương sự. Như vậy, cho dù có thêm cấp tòa thì cũng vẫn đảm bảo được về vấn đề nhân sự, cơ cấu.
    7. Cơ cấu của đề tài
    Ngoài phần danh mục chữ viết tắt, giới thiệu chung, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm 3 phần:
    Phần thứ nhất là những vấn đề lý luận chung. Trong phần này tác giả xây dựng các khái niệm cơ bản như: tố tụng dân sự, đương sự, hoạt động chứng minh chỉ rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự cũng như khái lược một số nét cơ bản về quy định của pháp luật qua từng thời kỳ về vai trò chứng minh của đương sự.
    Phần thứ hai với tiêu mục là “Xác định vai trò chứng minh của đương sự – một vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” là nội dung chính của đề tài. Tác giả đi vào giải quyết các vấn đề liên quan để chỉ rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất trong sự so sánh với các chủ thể khác của họat động chứng minh, khẳng định vai trò này ngày càng quan trọng hơn trong bối cảnh hiện nay.
    Phần thứ ba, sau khi đi nghiên cứu một cách toàn diện và chặt chẽ các vấn đề lý luận ở hai phần trên, tác giả đi vào phân tích những bất cập, tồn tại của Bộ luật TTDS hiện hành và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục, giải quyết, hiện thực hóa những quy định của pháp luật còn chưa có cơ chế cụ thể đảm bảo.

    CHÚ THÍCH:
    [1] Xem: Giáo trình Luật tố tụng dân sự – Trường đại học Luật Hà Nội, tr 107, 108. pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn xét xử. NXB chính trị quốc gia – Tưởng Duy Lượng chủ biên, tr 10, 11
    [2] Từ điển luật học – NXB Tư Pháp, tr. 785
    [3] Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ? ý chủ biên tr. 1606
    [4] Theo Pothier thì “Tố tụng là hình thức phải theo để đệ đơn kiện, kháng biện, can thiệp, cứu xét, phán xử thượng khống và thi hành án văn” hay như G.S. Solus thì “Dân Sự Tố Tụng bao gồm những định lệ chi phối việc tổ chức và điều hành công lý, đặt ra để đảm bảo cho tư nhân các sự chế tài và tôn trọng quyền lợi trong tư luật” – xem Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam (1962), NXB Khai Trí xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư Pháp. tr5 – 6
    [5] Đại biểu Lê Văn Tâm, Lê Xuân Thân, Lê Thị Nga, Nguyễn Đình Lộc trong buổi làm việc tại hội trường của Quốc Hội khóa XI ngày 19/ 11/ 2003
    [6] Xem các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án nhân dân tối cao các năm 2004, 2005, 2006 phần các quyết định về Dân Sự, Kinh doanh, Thương mại, lao động – Đặc san của Tòa án Nhân Dân Tối Cao.
    [7] Đại từ điển tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin, Nguyễn Như ý chủ biên
    [8] Nguyễn Hữu Đắc – Từ điển Luật Học – NXB từ điển Bách Khoa, Hà Nội 1999
    [9] Bryan A.Garner (2001) Blacks law dictonari. ST Pual MNN
    [10] Giáo trình Luật tố tụng dân sự – trường đại học Luật Hà Nội, NXB Tư Pháp tr 104
    [11] Xem: Nguyễn Mạnh Bách (1996) Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải), NXB Đồng Nai, tr 76, 77
    [12] Từ điển tiếng Việt – NXB Đà Nẵng năm 2003. tr 192
    [13] Đại từ điển tiếng Việt — NXB Văn Hóa Thông Tin (1998) Nguyễn Như ý chủ biên, tr 1217
    [14] Ph. Anghen, chống Đuyrinh – NXB Sự Thật (1984), tr 56
    [15] xem: Chương II Thỉnh cầu và kháng biện, Luật tố tụng dân sự Việt Nam (lược giải) – Tiến sĩ, Luật sư Nguyễn Mạnh Bách – NXB Đồng Nai 1996, tr 16 – 20.
    [16] Trần Văn Liêm (1970) Dân Luật quyển 1, Dân luật nhập môn thế nhân. tr 191
    [17] Nguyễn Huy Đẩu – Luật dân sự tố tụng Việt Nam ( 1962 ) NXB Khai Trí, tr. 22
    [18] Giảng văn pháp chế sử (1961-1962) – giáo sư Vũ Quốc Thông, quyển 3 – Tổ chức tư pháp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc
    [19] Xem phụ lục một số bức ảnh về thủ tục tố tụng thời kỳ Pháp thuộc
    [20] Xem chương Thủ tục phiên tòa sơ thẩm ở các pháp lệnh
    [21] Xem chương Thủ tục phúc thẩm tại các pháp lệnh
    [22] Phan Hữu Thư (2001) xây dựng bộ luật Tố Tụng Dân Sự – những vấn đề lý luận và thực tiễn NXB chính trị Quốc Gia. tr 223
    [23] Đại từ điển tiếng Việt — NXB Văn Hóa Thông Tin ( 1998 ) Nguyễn Như ý chủ biên tr 1788
    [24] Xem mục 1.2 phần IV nghị quyết số 04/2005/NQ – HĐTP của HĐTPTANDTC ngày 19 tháng 9 năm 2005 về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về “chứng minh và chứng cứ”
    [25] Xem Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 1/9/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.
    [26] Trường đại học Luật Hà Nội (2001) công trình nghiên cứu khoa học cấp trường. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự. Tr.65
    [27] C. Mac – Ph. Anghen (1983) tuyển tập. Tập 5 NXB Sự Thật – Hà Nội
    [28] francais juridique – cours elementaire – Maison du droi Vietnamo – Francais p.3 (Giáo trình tiếng pháp pháp lý – Nhà pháp luật Việt Pháp (bản tiếng Pháp) tr.3)
    [29] Giáo trình luật tố tụng dân sự – trường đại học Luật Hà Nội – NXB Tư Pháp tr11
    [30] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
    [31] Mục 2 Nghị Quyết số 49 – NQ\TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
    [32] Khoản 4 điều XVI Hiệp định MARRAKESH thành lập WTO.
    [33] Đinh Ngọc Hiện – Tư pháp dân sự và thủ tục tố tụng dân sự – Hội thảo những vấn đề lý luận và thực tiễn của tố tụng dân sự Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi
    [34] Báo cáo số 01/ BC – TA của Tòa án nhân dân tối cao ngày 5 tháng 1 năm 2007
    [35] Tiết 2.1 mục 2 phần III nghị quyết số 01/2005/NQ – HĐTP ngày 31 tháng 5 năm 2005 của Hội Đồng Thẩm Phán Tòa án Nhân Dân Tối Cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004
    [36] Xem điều 132,149 BLTTDS CHLB Nga, Điều 11, 132,133 BLTTDS Pháp, Điều 70 Bộ Dân Sự Tố Tụng Pháp 1807 (được áp dụng ở Việt Nam trong một thời kỳ Pháp thuộc), Điều 259 Nghị Định 16-3-1910, Điều 374 Bộ Hộ Sự, Thương Sự Tố Tụng Trung Việt.
    [37] Xem điều 10 Luật trợ gúp pháp lý, hướng dẫn chi tiết tại điều 2 Nghị Định số 07/2007/ NĐ – CP ngày 12 tháng 1 năm 2007 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật trợ giúp pháp lý.
    [38] Xem Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp và Bộ Nội Vụ số 08/2008/ TTLT – BTP – BNV ngày 7 tháng 11 năm 2008 Về việc hướng dẫn tổ chức và biên chế của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước.
    [39] Kinh nghiệm của một số nước cho thấy nhờ có sự tham gia tích cực từ phía luật sư mà số lượng án mà tòa thụ lý phải đưa ra xét xử thấp nhờ công tác hòa giải như Canada (< 5% ), Thụy Điển, Đan Mạch (< 20%), Nhật Bản hình thành một quan điểm phổ biến: “Tòa án nhỏ – Hòa giải lớn”. Nhưng tại Việt Nam, số lượng án thụ lý phải đưa ra xét xử rất lớn cụ thể như ở TP. Hồ Chí Minh hàng năm thụ lý từ 26.000 – 28.000 vụ và tỉ lệ xét xử là khoảng 65%.
    [40] Điều 751 BLTTDS Cộng Hòa Pháp : “Các bên đương sự phải cử luật sư, trừ trường hợp có quy định khác. Việc cử luật sư cũng có nghĩa là đã trọn nơi cư trú. Việc không nêu rõ việc cử luật sư của mình đối với bên kia cũng coi như vô hiệu.”
    [41] Xem Tranh tụng trong tố tụng dân sự – một số vấn đề lý luận cơ bản. Ths. Nguyễn Thị Thu Hà – Khoa luật dân sự, trường đại học Luật Hà Nội, Trang thông tin pháp luật dân sự.
    [42] Mục 2.2 nghị quyết số 49 – NQ/ TW của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...