Luận Văn Vài suy nghĩ gợi mở cho công tác phát triển lực lượng lao động có tay nghề vùng đồng bằng sông Cửu L

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Linh Napie, 2/12/13.

  1. Linh Napie

    Linh Napie New Member

    Bài viết:
    4,057
    Được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vài suy nghĩ gợi mở cho công tác phát triển
    lực lượng lao động có tay nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long



    Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cung cấp tới 90% lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng trái cây các loại, kim ngạch xuất khẩu thủy sản chiếm gần 60% của cả nước. Thế nên, nhắc tới đồng bằng sông Cửu Long, người ta hay đề cập đến những lợi thế mà thiên nhiên ưu đãi cho vùng này. Nhưng, cũng những khi đề cập đến vùng ĐBSCL, người ta cho rằng nơi đây “giàu lương thực nhưng nghèo con chữ”, mặt bằng dân trí thuộc loại thấp nhất, nhì so với cả nước, là “vùng trũng” của giáo dục – đào tạo, là vùng có tỷ lệ học sinh theo học nghề thấp nhất cả nước, sản xuất nông nghiệp thiếu tính bền vững và tỷ lệ hộ nghèo còn cao!
    Với dân số trên 17 triệu người, lực lượng lao động chiếm 21,44% tổng số lao động cả nước, trong đó tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm đến hơn 80% (tỷ lệ chung cả nước là 74,6%), tỷ lệ học sinh bỏ học hằng năm cao nhất nước, ĐBSCL đang nặng quằn trên đôi vai của mình vấn đề ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC. Bài học thành công của các nước Đông Á cho thấy hoạt động dạy nghề được xếp ưu tiên trong chính sách đầu tư, đặc biệt đối với những vùng nông thôn đông dân, nhằm cung cấp cho người lao động những kỹ năng cần thiết để họ sống được và làm giàu trên mảnh đất, miếng vườn của họ, hoặc giúp họ có thể tìm được việc trong các nhà máy với thu nhập tốt hơn. Đồng bằng sông Cửu Long cho đến nay vẫn còn là vùng thuần nông với mật độ dân số 432 người/km2, nếu không có một tầm nhìn chiến lược toàn diện cho sự phát triển nguồn lực con người để biến “gánh nặng đông dân” thành “thế mạnh dồi dào nguồn nhân lực” thì ĐBSCL sẽ bị đẩy lùi về tận phía sau trên con đường hội nhập kinh tế vì phải loay hoay với những vấn đề an sinh xã hội.
    Ngày 25/10/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 206/1999/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2000 và giai đoạn 2001 – 2005, theo đó, một trong những mục tiêu quan trọng của kế hoạch là “Phát triển mạnh các loại hình giáo dục nghề nghiệp. Phấn đấu nâng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong khu vực đạt 13 – 14,5% vào năm 2000, 20 – 25% vào năm 2005 ”. Thủ tướng đã giao cho các bộ, ngành liên quan và UBND các tỉnh, thành trong vùng xây dựng đề án mạng lưới các cơ sở giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh việc đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục của toàn vùng.
    Ngày 04/5/2001, Quyết định số 71/2001/TTg của Thủ tướng Chính phủ tiếp tục đề ra mục tiêu cho ĐBSCL nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 40% tổng số lao động trong độ tuổi quy định vào năm 2010, năm 2005 phải đạt 30%. Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2001 – 2005 được Thủ tướng phê duyệt có dự án “Tăng cường năng lực đào tạo nghề”.
    Về văn bản chỉ đạo của Chính phủ, đáng quan tâm hơn cả có lẽ là Quyết định số 20/2006/QĐ-TTg ngày 20/01/2006 về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010. Trong văn bản này, ngoài việc đề ra các chỉ tiêu phát triển, Thủ tướng đã chỉ đạo một điều mà khi nghe, ai cũng rất phấn khởi, đó là “Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề vùng đồng bằng sông Cửu Long”, cụ thể là “bảo đảm tăng dần tỷ lệ đầu tư từ 17,17% hiện nay (2006) lên 20% tổng ngân sách giáo dục, đào tạo và dạy nghề của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương vào năm 2010”. Gần đây, ngày 05/02/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ban hành một số cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long đếnnăm 2010. Trên tinh thần chỉ đạo này, ĐBSCL cũng được Bộ LĐ,TB&XH đặc biệt quan tâm bố trí nguồn vốn từ dự án “Tăng cường năng lực dạy nghề” (tổng kinh phí dự tính lên đến 5.500 tỷ đồng) trong Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo đến năm 2010 (QĐ số 07/2008/QĐ-TTg ngày 10/01/2008).
    Như vậy, không thể nói Chính phủ thiếu quan tâm đến nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực của ĐBSCL. Cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương thì sao?
    Tại các hội nghị giao ban thường kỳ của ngành giáo dục – đào tạo ĐBSCL, lãnh đạo các Sở cũng rất băn khoăn, trăn trở, luôn tìm kiếm giải pháp để nâng cao chất luợng đồng thời với việc tăng quy mô giáo dục - đào tạo. Tỉnh An Giang, ý thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục và đào tạo ở một tỉnh đông dân (hơn 2,2 triệu người), Tỉnh ủy cũng đã chỉ đạo khá quyết liệt việc thực hiện Chương trình hành động của tỉnh thực hiện Nghị quyết TW2 (Khoá VIII) và Kết luận của Hội nghị TW lần 6 (Khóa IX) về phát triển giáo dục đào tạo. Đáng chú ý nhất là ngày 01/8/2006, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU – nghị quyết đầu tiên của nhiệm kỳ - về phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2006 – 2010; đến ngày 26/01/2007, Tỉnh ủy ban hành tiếp Nghị quyết số 07-NQ/TU về đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Nhiều chỉ thị của UBND tỉnh cũng đã được ban hành ở từng thời điểm cần thiết để đôn đốc các ngành, các cấp đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo. Thế mà chất lượng nguồn nhân lực của An Giang vẫn đang ở mức thấp, hiệu quả của công tác giáo dục – đào tạo chưa cao, nhiều chỉ tiêu chưa ngang bằng với bình quân cả nước, có chỉ tiêu thấp hơn bình quân của vùng ĐBSCL như tỷ lệ học sinh đến trường so với độ tuổi. Thực trạng này đang làm đau đầu các cấp lãnh đạo.
    Nhiều năm qua, An Giang phải vất vả với “vấn nạn” học sinh bỏ học. Số liệu thống kê của Sở GD-ĐT cho biết 39.000 HS vào lớp 1 thì 12 năm sau, chỉ có 13.000 HS dự thi tốt nghiệp THPT. Có nghĩa là HS đã “rơi rớt dọc đường” hết 2/3. Cứ mỗi năm có đến vài chục ngàn HS rời khỏi mái trường để bước vào đời trong khi chưa được trang bị một nghề nghiệp nào! Tỉnh hiện chỉ có một trường cao đẳng nghề với quy mô tuyển mới hằng năm chưa đến hai ngàn rưỡi HS cho cả 3 trình độ, một trường trung cấp y tế và một trường trung cấp nghề trực thuộc Liên đoàn Lao động tỉnh. Các trung tâm dạy nghề cấp huyện thiếu thốn về cơ sở vật chất và trang thiết bị, lại không có giáo viên cơ hữu, chủ yếu đào tạo nghề ngắn hạn để tạo điều kiện cho người lao động dễ tìm kiếm việc làm. Trong Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện công tác đào tạo nghề của Sở LĐ-TB&XH, tuy tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề có tăng lên hằng năm nhưng cuối năm 2008 mới đạt 16,33%, chắc chắn là vào năm 2010 khó đạt được chỉ tiêu của Nghị quyết HĐND đề ra là 23% (bằng với chỉ tiêu trong QĐ 20/2006/QĐ-TTg). Đó là chưa nói đến trong con số 16,33% lao động được đào tạo nghề thì hơn 90% là trình độ sơ cấp và dưới sơ cấp. Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn chưa đảm bảo về chất lượng. Thực trạng nguồn nhân lực của An Giang (các tỉnh ĐBSCL chắc cũng tương tự như thế), trước yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới, từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, đã đặt ra cho các cấp lãnh đạo một trách nhiệm nặng nề, đó là làm thế nào để tạo nên một sức bật thực sự cho công tác phát triển lực lượng lao động có tay nghề, đặc biệt là công nhân và nông dân, cũng có thể nói là đột phá vào khâu đột phá nếu cho rằng giáo dục đào tạo và dạy nghề là một trong 3 lĩnh vực đột phá của vùng như Chính phủ đã xác định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ĐBSCL (giao thông, thủy lợi, giáo dục đào tạo và dạy nghề).
    Vậy, đột phá vào khâu đột phá là như thế nào?
    Ông bà ta xưa nay thường nói: “Không thầy đố mầy làm nên!”. Câu tục ngữ tôn vinh truyền thống “Tôn sư trọng đạo”; và ở một khía cạnh khác, câu tục ngữ còn khẳng định vai trò tối quan trọng của người thầy trong quá trình giáo dục và đào tạo. Thử ứng dụng câu tục ngữ này vào công việc tổ chức dạy nghề lâu nay, ta thấy hoàn toàn chính xác. Tại thị xã Châu Đốc (An Giang), một trường trung cấp nghề đã được đầu tư xây dựng nhưng chưa thể hoạt động được vì chưa có thầy. Các trung tâm dạy nghề cấp huyện không có giáo viên cơ hữu, chỉ có bộ khung quản lý, khi nào mở lớp thì thỉnh giảng nên khó phát triển. Tại Trường Cao đẳng nghề, tổng số giờ thừa của giáo viên một năm học là 86.101 giờ. Nếu lấy số giờ thừa chia cho giờ chuẩn của giáo viên (450 giờ/GV/năm) thì nhà trường thiếu đến 190 giáo viên (hiện số GV trực tiếp giảng dạy là 191). Mấy năm gần đây, khi chủ trương của Chính phủ cho phép đẩy mạnh xã hội hóa công tác giáo dục đào tạo thì cũng có mấy nhà đầu tư đến tỉnh thăm dò để mở cơ sở dạy nghề, nhưng họ đều ngán ngại vì không có đội ngũ giáo viên, ngoại trừ một cơ sở dạy lái xe là được thành hình nhờ việc tìm thầy dạy cho loại hình đào tạo này không khó.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...