Thạc Sĩ Ước lượng xuất sinh lợi giáo dục ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Marketing' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Ước lượng xuất sinh lợi giáo dục ở Việt Nam

    MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề
    “Vốn con người (Human Capital) là những gì có liên quan đến tri thức, kỹ năng
    và những thuộc tính tiêu biểu khác của một cá nhân mà nó có ảnh hưởng đến những
    hoạt động kinh tế” (OECD, 1998)1 . Vốn con người được hình thành thông qua việc
    đầu tư cho người lao động, bao gồm các khoản chi dùng vào các mặt giáo dục, bồi
    dưỡng kỹ thuật, bảo vệ sức khoẻ, lưu chuyển sức lao động trong nước, di dân nhập
    cảnh và các phúc lợi xã hội khác. Trong đó, quan trọng nhất là đầu tư giáo dục và bảo
    vệ sức khoẻ. Việc đầu tư này có lợi cho tố chất sức lao động, tức nâng cao năng lực
    công tác, trình độ kỹ thuật, mức độ lành nghề, mức độ sức khoẻ, có lợi cho việc tăng
    thêm số lượng người lao động phù hợp với nhu cầu tương lai, điều chỉnh sự thừa
    thiếu sức lao động hiện có trong nước, lợi dụng sức lao động nước ngoài và tiết kiệm
    chi phí giáo dục.

    Quan niệm con người đầu tư cho mình có ý nghĩa rất rộng, bao gồm không chỉ
    đầu tư vào học tập trong nhà trường và đào tạo sau khi học mà còn đầu tư khi còn ở
    nhà, trước tuổi đi học và đầu tư vào thị trường lao động để tìm việc. Kinh tế học
    phương Tây dùng lý thuyết vốn con người để giải thích sự phân biệt các mức lương
    theo tuổi tác và nghề nghiệp, tỉ lệ thất nghiệp không đồng đều, sự phân bổ nguồn lực
    lao động vào các khu vực kinh tế.
    Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay quan tâm nhiều đến
    việc đầu tư cho giáo dục, y tế và nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra một nguồn nhân
    lực thích ứng với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai
    đoạn 2002 - 2006, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo chiếm tỷ trọng
    1 OECD (1998), Human Capital Investment- An International Comparision, Paris: OECD
    trong GDP tăng từ 4,2% lên 5,6%; và đến năm 2007 là 6,44%2. Chính sách tài chính
    cho giáo dục nhiều năm gần đây cho đến năm 2007 được giữ mức tỉ lệ 20% tổng chi
    ngân sách nhà nước và có thể tăng thêm lên đến 21-22% trong giai đoạn 2008-2010
    theo hướng ưu tiên đầu tư ngân sách. Đây là mức tăng cao thể hiện sự quan tâm của
    Chính phủ đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo. Theo quan điểm của Chính phủ, giáo
    dục làm tăng năng suất và thu nhập của người lao động là một tín hiệu tốt để thuyết
    phục Chính phủ chi đầu tư vào giáo dục.
    Giáo dục là rất quan trọng. Mọi người đều biết rằng học càng nhiều thì sẽ càng
    có nhiều cơ hội để kiếm thêm thu nhập, tuy nhiên không phải tất cả mọi người đều
    đầu tư vào các mức học vấn cao như đại học. Đó là do nguồn tài nguyên của cá nhân
    (hay của gia đình) hạn hẹp, chi tiêu cho giáo dục phải cạnh tranh với nhiều khoản chi
    tiêu đáp ứng các nhu cầu khác. Nếu đầu tư cho giáo dục là có lợi, nghĩa là giáo dục
    tốt sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập của người đầu tư, thì việc chi tiêu cho giáo dục rõ
    ràng là điều cần nên làm.
    Đầu tư của Nhà nước và tư nhân vào giáo dục được định hướng bởi việc tính
    toán lợi suất đầu tư vào giáo dục, một chỉ tiêu được xem là lợi ích của giáo dục trong
    thị trường lao động. Chúng ta cũng có thể hiểu bản chất và hoạt động của thị trường
    lao động thông qua việc nắm bắt sự thay đổi của các lợi suất này theo các tính chất cá
    nhân và địa bàn, theo ngành kinh tế, theo loại hình kinh tế tại một thời điểm ; và sự
    thay đổi của chỉ số này qua thời gian. Sự hiểu biết này cũng sẽ giúp định hướng các
    chính sách đầu tư cho giáo dục.
    Việc đi học sẽ đem lại lợi ích do gia tăng mức thu nhập, chúng ta đều có cảm
    nghĩ một cách định tính như vậy. Tuy nhiên, mức gia tăng đó là bao nhiêu nhất thiết
    cần phải được định lượng để nghiên cứu và so sánh.
    2 Bộ Tài chính, Số liệu Ngân sách Nhà nước, http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=5271 (truy cập
    ngày 11/12/2008)
    2. Mục tiêu nghiên cứu
    Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ trả lời những câu hỏi:
    - Suất sinh lợi của việc đi học (giáo dục) ở Việt Nam vào thời điểm khảo sát là
    bao nhiêu phần trăm? Hay nói cách khác, khi tăng thêm một năm đi học thì thu
    nhập của người lao động làm thuê sẽ tăng thêm bao nhiêu phần trăm?
    - Suất sinh lợi của giáo dục có sự khác biệt như thế nào khi xét đến các khác
    biệt về tính chất cá nhân (giới tính, cán bộ công chức, địa bàn cư trú và làm việc,
    bằng cấp giáo dục đào tạo), khác biệt về ngành kinh tế (nông nghiệp / phi nông
    nghiệp) và khác biệt về loại hình kinh tế làm thuê?
    3. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
    Nghiên cứu này sử dụng bộ số liệu Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam
    năm 2004 (KSMS 2004) của Tổng cục Thống kê và dựa vào hàm thu nhập của
    Mincer để ước lượng suất sinh lợi của giáo dục ở Việt Nam.
    Để trả lời các câu hỏi của mục tiêu nghiên cứu, ngoài phương pháp mô tả
    thống kê, diễn dịch so sánh, nghiên cứu này dựa vào phương pháp định lượng bằng
    mô hình kinh tế lượng - hồi qui hàm thu nhập Mincer:
    - Chọn mẫu và tính toán các giá trị biến số từ bộ số liệu KSMS 2004 của Tổng
    cục Thống kê (bộ số liệu này lưu giữ dưới định dạng của phần mềm Stata, được
    trích xuất và chuyển thành định dạng của phần mềm Excel để tính toán )
    - Thực hiện hồi qui và kiểm định các hệ số ước lượng của hàm thu nhập
    Mincer bằng phần mềm Eviews .
    4. Cấu trúc luận văn
    Ngoài lời mở đầu, danh mục các bảng, danh mục các hình, danh mục các chữ
    viết tắt, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương: - Chương 1: Cơ sở lý luận về suất sinh lợi của giáo dục. Nội dung chương
    này là trình bày tổng quan lý thuyết vốn con người, mô hình học vấn và trình bày
    diễn dịch toán học của Mincer dẫn đến mô hình hàm thu nhập cho phép ước lượng
    được hiệu quả của giáo dục và kinh nghiệm bằng phương pháp hồi qui kinh tế
    lượng, đồng thời nêu lên những giới hạn và ưu điểm của mô hình này. Phần cuối
    chương 1 trình bày các kết quả nghiên cứu thực nghiệm ước lượng suất sinh lợi của
    giáo dục trên thế giới dựa trên hàm thu nhập Mincer.
    - Chương 2: Hiệu quả của giáo dục ở Việt Nam qua mô tả thống kê.
    Chương 2 được bắt đầu từ việc giới thiệu sơ lược về cuộc Khảo sát mức sống hộ gia
    đình Việt Nam năm 2004 do Tổng cục Thống kê thực hiện. Mục tiêu chương này là
    nghiên cứu hiệu quả của giáo dục ở Việt Nam bằng phương pháp mô tả thống kê:
    khảo sát tình trạng đi học và làm việc ở Việt Nam, phân tích sự hiệu quả khi hộ gia
    đình đầu tư cho giáo dục, căn cứ vào mức chi phí cho việc đi học và mức tăng tiền
    lương khi trình độ học vấn tăng thêm. Phần cuối chương 2 trình bày các bằng chứng
    thực nghiệm của các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả của giáo dục ở Việt Nam
    vào những năm trước đây.
    - Chương 3: Ước lượng suất sinh lợi của giáo dục ở Việt Nam năm 2004.
    Mục tiêu của chương 3 là ước lượng suất sinh lợi của giáo dục ở Việt Nam (năm
    2004) bằng phương pháp kinh tế lượng: hồi qui hàm thu nhập Mincer. Trong
    chương này, tác giả đề nghị các mẫu được chọn lựa ; đề nghị phương án tính toán số
    năm đi học căn cứ vào hệ thống giáo dục ở Việt Nam có nhiều thay đổi qua các thời
    kỳ lịch sử, và việc tính toán các biến giải thích khác. Phần cuối của chương này
    trình bày kết quả nghiên cứu ước lượng các hệ số, khi hồi qui với hàm thu nhập
    Mincer cơ sở và mở rộng, gồm cả với việc xét đến các tính chất quan sát.
    Kết luận và gợi ý chính sách: Dựa trên các phân tích ở chương 2 và kết quả
    thực nghiệm ở chương 3, tác giả đưa ra những kết luận của nghiên cứu cùng với gợi
    ý về chính sách, đồng thời đề xuất nghiên cứu tiếp theo.
     
Đang tải...