Luận Văn Ứng dụng vi sinh vật trong sản xuất phân bón vi sinh

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    ¾ Cùng với sự Phát triển không ngừng của xã hội, ngành Nông nghiệp cũng đã
    có những thay đổi rất đáng kể. Nhiều máy móc tiên tiến, công nghệ trồng trọt,
    giống mới ra đời, đã đáp ứng kịp với những nhu cầu ngày càng cao. Việt Nam là
    nước Nông nghiệp nên phân bón và giống có thể xem là 2 yếu tố có tính quyết định
    đến năng suất và chất lượng. Nhiều nơi, do sử dụng quá mức cần thiết các loại phân
    bón và thuốc trừ sâu hoá học làm cho đất canh tác bị bạc màu đi rất nhanh chóng.
    ¾ Ngoài ra,những ảnh hưởng của Phát triển Nông nghiệp theo hướng CNHHĐH
    cũng góp phần làm cho diện tích đất Nông nghiệp ngày một giảm đi, trong khi
    đó dân số tiếp tục tăng lên,nhu cầu về nhà ở ngày càng nhiều,nếu chúng ta không có
    quy hoạch và quản lý tốt thì diện tích đất màu mỡ sẽ mất đi nhanh chóng.
    ¾ Mặt khác,mưa nhiều và tập trung làm cho đất trở nên xói mòn, rửa trôi khá
    nhanh,đất dễ bị suy thoái, cạn kiệt dinh dưỡng. Bên cạnh đó, việc khai thác và sử
    dụng quá mức cũng như chế độ cach tác không hợp lý cũng dẫn đến tình trạng sa
    mạc hóa
    ¾ Do nhu cầu Xã hội ngày càng Phát triển cao đòi hỏi con người sử dụng nhiều
    biện pháp khác nhau để tăng năng suất sản lượng sản phẩm. Những hoạt động nhằm
    mục đích kinh tế này cũng là nguyên nhân cơ bản làm ô nhiễm môi trường.
    ¾ Mặt khác,ngành Nông nghiệp ở việt nam hiện nay chủ yếu sử dụng phân bón
    hóa học,vì thế dư lượng các chất Hóa học trong các loại phân này gây ô nhiễm môi
    trường đất,môi trường nước và ảnh hưởng nhiều đến sinh vật cũng như con người.
    ¾ Vậy làm thế nào để trả lại độ phì nhiêu cho đất?
    Đó là sử dụng sản phẩm phân hữu cơ vi sinh vật đa chủng chế biến từ các nguồn
    khác nhau, đây chính là giải pháp hay nhất hiện nay có thể giải quyết được các vấn
    đề trên. Phân bón vi sinh dựa vào các chủng vi sinh vật sẽ phân giải các chất hữu cơ
    trong bùn, phế thải, rác thải, phế phẩm công nông nghiệp, . tạo ra sinh khổi,sinh
    khối này rất tốt cho cây cũng như cho đất,giúp cải tạo làm đất tơi xốp.Vả lại với
    mức sống trung bình của một người nông dân hiện nay không thể dùng các loại
    phân bón cho cây trồng với giá cả cao như vậy, sự ra đời của phân vi sinh đã đáp
    ứng được mong muốn của người nông dân, vừa tăng năng suất lại hợp túi tiền.Dùng
    phân vi sinh có thể thay thế được từ 50 - 100% lượng phân đạm Hóa học (tùy từng
    loại cây trồng bón phân vi sinh có thể tiết kiệm được nhiều chi phí do giá phân hạ,
    giảm lượng phân bón, giảm số lần phun và lượng thuốc BVTV) Do bón vi sinh
    nên sản phẩm rất an toàn, lượng nitrat giảm đáng kể, đất không bị ô nhiễm, khả
    năng giữ ẩm tốt hơn, tăng cường khả năng cải tạo đất do các hệ sinh vật có ích hoạt
    động mạnh làm cho đất tơi xốp hơn, cây dễ hút thu dinh dưỡng hơn.
    Lịch sử Phát triển phân bón vi sinh:
    ¾ Phân bón vi sinh do Noble Hiltner sản xuất đầu tiên tại Đức năm 1896 và
    được đặt tên là Nitragin. Sau đó Phát triển sản xuất tại một số nước khác như ở Mỹ
    (1896), Canada (1905), Nga (1907), Anh (1910) và Thụy Điển (1914).
    ¾ Nitragin là loại phân được chế tạo bởi vi khuẩn Rhizolium do Beijerink phân
    lập năm 1888 và được Fred đặt tên vào năm 1889 dùng để bón cho các loại cây
    thích hợp họ đậu. Từ đó cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhằm
    ứng dụng và mở rộng việc sản xuất các loại phân bón vi sinh cố định nitơ mà thành
    phần còn được phối hợp thêm một số vi sinh vật có ích khác như một số xạ khuẩn
    cố định nitơ sống tự do Frankia spp, Azotobacter spp, các vi khuẩn cố định nitơ
    sống tự do clostridium, pasterium, Beijerinkiaindica, các xạ khuẩn có khả năng giải
    cellulose, hoặc một số chủng vi sinh vật có khả năng chuyển hóa các nguồn dự trữ
    phospho và kali ở dạng khó hoà tan với số lượng lớn có trong đất mùn, than bùn,
    trong các quặng apatit, phosphoric v.v . chuyển chúng thành dạng dễ hoà tan, cây
    trồng có thể hấp thụ được.
    Ở Việt Nam, phân VSV cố định đạm cây họ đậu và phân VSV phân
    giải lân đã được nghiên cứu từ năm 1960. Đến năm 1987,phân Nitragin trên nền
    chất mang than bùn mới được hoàn thiện.Năm 1991 đã có hơn 10 đơn vị trong cả
    nước tập trung nghiên cứu phân vi sinh vật. Các nhà khoa học đã phân lập được
    nhiều chủng vi sinh vật cố định đạm và một số VSV phân giải lân
    Chất mang là gì?
    Chất mang là chất để vi sinh vật được cấy tồn tại và (hoặc ) phát triển, tạo điều
    kiện thuận lợi cho vận chuyển, bảo quản và sử dụng phân vi sinh. Chất mang không
    được chứa chất có hại cho người , động thực vật, môi trường sinh thái và chất lượng
    nông sản.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...