Tiểu Luận Ứng dụng phân tích SWOT đối với ngành ngân hàng

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tên đề tài
    Ứng dụng phân tích SWOT đối với ngành ngân hàng
    Mở đầu

    Các khái niệm trong tên đề tài: ứng dụng, phân tích, SWOT, ngành, ngân hàng
    Quá trình lập kế hoạch này sau đó được thiết kế thông qua phương pháp “Thử và sai” mà kết quả là một quá trình gồm 17 bước, bằt đầu bằng SOFT/SWOT với mỗi mục ghi riêng vào từng trang.
    Phiên bản đầu tiên được thử nghiệm và xuất bản năm 1966 dựa trên hoạt động của công ty Erie Technological Corp. ở Erie Pa. Năm 1970, phiên bản này được chuyển tới Anh dưới sự tài trợ của công ty W.H.Smith & Sons PLC và được hoàn thiện năm 1973. Phương pháp phân tích này cũng đã được sử dụng khi sáp nhập các cơ sở xay xát và nướng bánh của CWS vào J.W.Frenhch Ltd.
    Mô hình phân tích SWOT là kết quả của một cuộc khảo sát trên 500 công ty có doanh thu cao nhất do tạp chí Fortune bình chọn và được tiến hành tại Viện Nghiên cứu Standford trong thập niên 60-70, nhằm mục đích tìm ra nguyên nhân vì sao nhiều công ty thất bại trong việc thực hiện kế hoạch. Nhóm nghiên cứu gồm có Marion Dosher, Ts. Otis Benepe, Albert Humphrey, Robert Stewart và Birger Lie.
    Việc Du Pont lập kế hoạch kinh doanh dài hạn vào năm 1949 đã khơi mào cho một phong trào “tạo dựng kế hoạch” tại các công ty. Cho tới năm 1960, toàn bộ 500 công ty được tạp chí Fortune bình chọn đều có “Giám đốc kế hoạch” và các “Hiệp hội các nhà xây dựng kế hoạch dài hạn cho doanh nghiệp”, hoạt động ở cả Anh quốc và Hoa Kỳ.
    Tuy nhiên, tất cả các công ty trên đều thừa nhận rằng các kế hoạch dài hạn này không xứng đáng để đầu tư công sức bởi không có tính khả thi, chưa kể đây là một khoản đầu tư tốn kém và có phần phù phiếm.
    Trên thực tế, các doanh nghiệp đang thiếu một mắt xích quan trọng: làm thế nào để ban lãnh đạo nhất trí và cam kết thực hiện một tập hợp các chương trình hành động mang tính toàn diện mà không lệ thuộc vào tầm cỡ doanh nghiệp hay tài năng của các chuyên gia thiết lập kế hoạch dài hạn.
    Để tạo ra mắt xích này, năm 1960, Robert F. Stewart thuộc Viện Nghiên cứu Standford, Menlo Park, California, đã tổ chức một nhóm nghiên cứu với mục đích tìm hiểu quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp nhằm tìm ra giải pháp giúp các nhà lãnh đạo đồng thuận và tiếp tục thực hiện việc hoạch định, điều mà ngay nay chúng ta gọi là “thay đổi cung cách quản lý”.
    Công trình nghiên cứu kéo dài 9 năm, từ 1960 đến 1969 với hơn 5000 nhân viên làm việc cật lực để hoàn thành bản thu thập ý kiến gồm 250 nội dung thực hiện trên 1100 công ty, tổ chức. Và sau cùng, nhóm nghiên cứu đã tìm ra 7 vấn đề chính trong việc tổ chức, điều hành doanh nghiệp hiệu quả. Tiến sĩ Otis Benepe đã xác định ra “Chuỗi lôgíc”, hạt nhân của hệ thống như sau:
    1. Values (Giá trị) 2. Appraise (Đánh giá) 3. Motivation (Động cơ) 4. Search (Tìm kiếm) 5. Select (Lựa chọn) 6. Programme (Lập chương trình) 7. Act (Hành động) 8. Monitor and repeat steps 1 2 and 3 (Giám sát và lặp lại các bước 1, 2 và 3).
    Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, không thể thay đổi giá trị của nhóm làm việc hay đặt ra mục tiêu cho nhóm làm việc, vì vậy nên bắt đầu bước thứ nhất bằng cách yêu cầu đánh giá ưu điểm và nhược điểm của công ty. Nhà kinh doanh nên bắt đầu hệ thống này bằng cách tự đặt câu hỏi về những điều “tốt” và “xấu” cho hiện tại và tương lai. Những điều “tốt” ở hiện tại là “Những điều hài lòng” (Satisfactory), và những điều “tốt” trong tương lai được gọi là “Cơ hội” (Opportunity); những điều “xấu” ở hiện tại là “Sai lầm” (Fault) và những điều “xấu” trong tương lai là “Nguy cơ” (Threat). Công việc này được gọi là phân tích SOFT.
    Kể từ đó, quá trình này đã được sử dụng thành công rất nhiều lần ở nhiều doanh nghiệp và tổ chức thuộc các lĩnh vực khác nhau. Và tới năm 2004, hệ thống này đã được phát triển đầy đủ, đã chứng minh được khả năng giải quyết hàng loạt các vấn đề hiện nay trong việc xác lập và nhất trí các mục tiêu mang tính thực tiễn hàng năm của doanh nghiệp mà không cần dựa vào các cố vấn bên ngoài.

     LỊCH SỬ NGÂN HÀNG:
    Xuất xứ của từ “Ngân hàng”: Thuật ngữ “Ngân hàng – Bank” xuất phát từ tiếng Ý Banco có nghĩa là “băng ghế dài”, được sử dụng trong thời kỳ Phục Hưng. Do trong thời kỳ đó, khách hàng và các banker (có thể không chính xác nên tạm dịch là những người cho vay, những người hoạt động trong ngành ngân hàng) thực hiện các giao dịch tại bàn và tại các băng ghế dài.
    Dấu vết của ngân hàng có thể được tìm thấy trong lịch sử đầu tiên của Ai Cập, Babylon, và Hy Lạp. Các ngôi đền ở những nơi này thực hành các hình thức ban đầu của ngân hàng dưới hình thức phê duyệt cho vay. Những ngôi đền cung cấp vàng và bạc đã được gửi cho an toàn, như các khoản vay cho khách hàng vay và lãi suất tính phí cao trên các mặt hàng. Các ngân hàng tư nhân đã được bắt đầu vào năm 600 TCN đã được sửa đổi bởi những người Hy Lạp, La Mã và Byzantine. Ngân hàng trung cổ đã có pha chì chủ yếu do người Do Thái và Levantine.
    Tiếp theo, xuất hiện một số ngân hàng theo định hướng mục đích cụ thể như Ngân hàng của Venice (1171) và Ngân hàng Anh, mà nhìn sau khi các khoản vay cho chính phủ, và Ngân hàng của Amsterdam (1694) được thành lập để nhận tiền gửi bằng vàng và bạc. Với sự phát triển trong lĩnh vực kinh doanh, lĩnh vực ngân hàng cũng phát triển cân đối và các thế kỷ XVIII và XIX kinh nghiệm sự tăng trưởng nhanh chóng trong lĩnh vực này.
    Trong thời đại hiện nay, lĩnh vực ngân hàng phát triển với khu vực phát triển của thương mại và ngoại thương. Ngày nay, có nhiều loại khác nhau của các ngân hàng đã được thiết lập cho các mục đích khác nhau. Đó là các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư. Sau đó là sự xuất hiện của các ngân hàng quốc tế: Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Trung ương châu Âu. Các tổ chức này hình thành chính là để đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới hiện đại.
     
Đang tải...