Tài liệu Ứng dụng mô hình CAPM đa biến để dự báo tỷ suất lợi nhuận và rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt

Thảo luận trong 'Đầu Tư - Chứng Khoán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CAPM - Mo Hinh Dinh Gia Tai San Von

    Phần một: MÔ HÌNH ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN VỐN (CAPITAL ASSET PRICING MODEL - CAPM)

    I - Những giả định đặt ra khi áp dụng mô hình CAPM

    Mô hình CAPM đơn giản hoá mối tương quan giữa mức sinh lợi trung bình và các nhân tố rủi ro của một loại tài sản tài chính hay cụ thể hơn là chứng khoán. Và vì vậy, để áp dụng mô hình, chúng ta đưa ra những giả định như sau:

    1. Các nhà đầu tư sẽ có rủi ro khác với những cá nhân muốn tối đa hoá giá trị hữu dụng của phần vốn của họ vào cuối kỳ. Mô hình này là mô hình một thời kỳ.

    2. Các nhà đầu tư nắm giữ danh mục chứng khoán đa dạng hoá hoàn toàn và tỷ suất sinh lợi mong đợi của các nhà đầu tư sẽ bị tác động bởi rủi ro hệ thống của từng loại chứng khoán trong danh mục. Điều này góp phần dễ dàng cho việc tính tỷ suất rủi ro hay phi rủi ro trung bình của danh mục.

    3. Các tài sản tài chính (chứng khoán) được trao đổi tự do trong thị trường cạnh tranh và các nhà đầu tư đều có kỳ vọng tương tự nhau về mức sinh lợi của tài sản. Tất cả nhà đầu tư đều nhận ra một dãy các cơ hội tương tự nhau, điều này có nghĩa là mọi người đều có một mức độ thông tin như nhau.

    4. Tất cả các tài sản đều hoàn toàn có thể chia được và định giá được trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo. Ở đây, không có sự tồn tại của nguồn vốn con người bởi vì chúng không thể chia được và không thể được sở hữu như một loại tài sản.

    5. Tồn tại một tài sản phi rủi ro và các nhà đầu tư có thể vay hoặc cho thuê một khoản không giới hạn ở một tỷ lệ cố định, không thay đổi theo thời gian : tỷ suất phi rủi ro rf.

    6. Có một số lượng tài sản nhất định và cố định trong cả một thời kỳ. Sự thu hồi tài sản hay mức sinh lợi tài sản được phân phối một cách bình thường.

    7. Không có tác động không hoàn hảo của thị trường như là thuế, luật và các ràng buộc hạn chể trên việc bán ngắn hạn. Không có chi phí môi giới cho việc mua bán chứng khoán.

    8. Có rất nhiều các nhà đầu tư nhỏ và không có nhà đầu tư cá nhân nào sở hữu lượng tài sản, vốn đủ lớn để tác động thị trường.

    9. Việc đầu tư chỉ giới hạn trong cổ phiếu, trái phiếu, và tài sản phi rủi ro và đặc biệt ở đây không có chứng khoán phái sinh.

    10. Động thái của các nhà đầu tư là sẽ lựa chọn loại chứng khoán có mức sinh lời cao nhất và mức rủi ro thấp nhất ứng với mức sinh lợi cho trước.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...