Thạc Sĩ Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - Thực trạng và giải

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật
    hiện đại, chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông, nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng
    có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực
    hoạt động của con người và xã hội. CNTT phục vụ trực tiếp cho việc cải tiến QLNN, nâng
    cao hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động KT - XH khác, từ đó
    góp phần nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phúc lợi của nhân dân. (không nên mở đầu
    bằng định nghĩa cụ thể như thế này, có thể theo cách sau[​IMG]
    Trước đây, khi đề cập đến các nguồn tài nguyên cho phát triển, người ta thường cho
    rằng, đó là các yếu tố nằm trong 4 chữ M: Men, Machines, Materials và Money (con
    người, máy móc, vật liệu và vốn). Thế nhưng, trong thời đại ngày nay, khi nói đến tài
    nguyên phát triển, không thể không nhắc đến yếu tố thứ năm rất quan trọng đó là thông tin
    (Information). Sự xuất hiện của yếu tố thứ năm là thông tin đã tạo ra sự thay đổi lớn mang
    tính cách mạng về phương thức làm việc và mô hình phát triển trong thế giới công nghiệp
    hoá với yếu tố dẫn đạo là kinh tế tri thức. Khi thông tin đã thực sự trở thành một lực lượng
    sản xuất vật chất quan trọng được thừa nhận ở tất cả các quốc gia, được sử dụng thường
    xuyên trong các hoạt động kinh tế - xã hội (KT-XH) thì bước chuyển từ xã hội công
    nghiệp sang xã hội thông tin sẽ là tất yếu.
    Cuộc cách mạng về công nghệ thông tin (CNTT) đang diễn ra trên quy mô toàn cầu
    và càng ngày càng đi vào chiều sâu, không loại trừ bất cứ quốc gia nào. Nó đã và đang tạo
    ra một bối cảnh cho sự ra đời của những cái mới. Bởi, "cuộc cách mạng thông tin đang
    trên đường tiến tới, đó không đơn thuần chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ, về máy móc,
    về kỹ thuật, về phần m hay tốc độ, mà trước hết đó là cuộc cách mạng về quan niệm, về
    đổi mới tư duy" [59, tr.34].
    Áp dụng những tiến bộ, những thành tựu ứ
    Ngày nay, CNTT là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển,
    cùng với một số ngành công nghệ cao khác, nó có tác dụng làm biến đổi sâu sắc đời sống
    kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại.KT-XHđối đang phát triển khi bước vào giai
    đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
    Ngay từ thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương
    vận dụng CNTT trong một số lĩnh vực. Bnước ta, nhất là từ khi bước sang thời kỳ đổi mới,
    chủ trương ứng dụng CNTT ấy đã được nhấn mạnh và cụ thể hoá trong nhiều nghị quyết
    của Đảng và Chính phủ. Chẳng hạn như:
    Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 30/3/1991 của Bộ Chính trị về khoa học và công
    nghệ trong sự nghiệp đổi mới; đă nêu: "Tập trung sức phát triển một số ngành KHCN mũi
    nhọn như điện tử, tin học "
    Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH TW khoá VII xác định: " .Ưvề ưu tiên ứng
    dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, trong đó có như CNTT. Nghị quyết Đại hội đại
    biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh: "Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các
    ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, các loại hình vận tải, bưu chính -
    viễn thông . Sớm phổ cập sử dụng tin học và Mạng thông tin quốc tế (Internet) trong nền
    kinh tế và đời sống xã hội” [20, tr.94].
    Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị khoá IX về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
    CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH, đã xác định rõ:
    Ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh
    vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển
    nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các
    doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,
    nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm an ninh, quốc phòng và tạo
    khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH [22, tr.7].
    Gần đây, Chính phủ Việt Nam đã ký hiệp định khung E-Asian với mục tiêu chính là:
    xây dựng cChính phủ điện tử ( CPĐT), tThương mại điện tử (TMĐT) và cộng đồng điện
    tử,, có nghĩa là Việt Namchúng ta đã cam kết đồng thuận triển khai các hoạt động của hiệp
    định, từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm thực hiện mô hình CPĐT, TMĐT, cộng
    đồng điện tử ở Việt Nam. Việc áp dụng CPĐT, TMĐT, CĐĐT cũng đồng nghĩa với việc
    phải giải quyết các vấn đề bảo đảm an ninh quốc gia và thành lập khung pháp lý điều
    chỉnh. Một khi CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử được vận hành có hiệu quả, các thao tác
    kỹ thuật được chuẩn hoá và thực hiện nhanh chóng, như vậythì mức độ chi phối chủ quan
    của yếu tố con người vào nhiều khâu của quá trình quản lý sẽ được giảm đáng kể. Cộng
    đồng điện tử, TMĐT sẽ bảo đảm phát triển nhanh một xã hội tri thức, thu hẹp sự khác biệt
    về kỹ thuật số, sự thông thoáng và hiệu quả khi người dân được tiếp cận với hệ thống hành
    chính, luật pháp và thông tin hiện đại trong nhiều lĩnh vực.
    Cũng như các tỉnh, thành phố khác trong cả nước, trong điều kiện đổi mới, Vĩnh
    Phúc chủ trương tiếp tục nâng cao sức cạnh tranh về thu hút vốn đầu tư trong nước và
    nước ngoài. Cơ sở hạ tầng về thông tin và trình độ ứng dụng CNTT là một trong những
    vấn đề được nhà đầu tư rất quan tâm khi tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ngoài ra, các nhà đầu tư
    cũng rất quan tâm đến sự sẵn sàng và tính mau lẹ của chính quyền địa phương trong việc
    giải quyết vướng mắc cho doanh nghiệp. Ứng dụng, CNTT và vận hành có hiệu quả
    CPĐT, TMĐT, cộng đồng điện tử sẽ làm tăng sức hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư, đặc
    biệt là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, mặt bằng CNTT của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
    vẫn ở trình độ thấp kém, phát triển chậm, có nguy cơ khôngchưa đáp ứng yêu cầu của cuộc
    sống, tụt hậu xa hơn so với các nhiều địa phương và khu vựckhác. Có thể liệt kê những
    vấn đề tồn tại sau đây ở Vĩnh PhúcĐó là: ứng dụng CNTT chưa đáp ứng được yêu cầu của
    tiến trình CNH, HĐH và yêu cầu về hội nhập khu vực và quốc tế; vai trò động lực và tiềm
    năng to lớn của CNTT chưa được phát huy mạnh mẽ; nguồn nhân lực CNTT chưa được
    chuẩn bị và phát triển kịp thời cả về số lượng và chất lượng; mạng viễn thông và Internet
    chưa thuận lợi, chưa đáp ứng các yêu cầu về tốc độ, chất lượng cho ứng dụng CNTT; đầu
    tư cho CNTT chưa tương xứng với tiềm năng; QLNN về lĩnh vực này vẫn còn mơ hồ, yếu
    kém; ứng dụng CNTT ở một số nơi còn hình thức, chưa thiết thực và hiệu quả chưa cao .
    Có nhiều yếu tố tác động, nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thực
    trạng trên. Tình hình đó đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, cả
    dưới góc độ lý luận lẫn góc độ thực tiễn. Chính vì vậy, Nguyên nhân của những tồn tại nêu
    trên chủ yếu là do nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội ở Vĩnh Phúc về vai trò
    của CNTT chưa đầy đủ; chưa thực hiện triệt để các chủ trương, chính sách của Đảng và
    Nhà nước về phát triển CNTT; chưa kết hợp chặt chẽ ứng dụng CNTT với quá trình cải
    cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, cơ
    cấu lại sản xuất, kinh doanh; chậm ban hành các chính sách đáp ứng nhu cầu ứng dụng và
    phát triển CNTT; QLNN trong các lĩnh vực CNTT chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa
    tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh cho việc cung ứng dịch vụ viễn thông và
    Internet, chưa coi đầu tư cho xây dựng hạ tầng thông tin là loại hình đầu tư xây dựng hạ
    tầng KT - XH.
    Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài: “Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ
    phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - Thực trạng và giải pháp” đã được tác giả
    chọn làm luận văn thạc sĩ.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    2.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
    Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của CNTT đối với phát
    triển KT-XH. Tác giả luận văn đã tiếp cận được một số công trình nghiên cứu khá điển
    hình như: Văn minh của làn sóng thứ ba, tác giả Allvin Toffler, Hetdi Toffler; Làn sóng
    thứ ba, tác giả Allvin Toffler; Cú sốc tương lai, tác giả Allvin Toffler; Đạo đức thông tin
    trong xã hội kinh tế tri thức, tác giả Cameron Esslement. Trong các tác phẩm này, các tác
    giả đã đề cập đến sự xuất hiện của một trào lưu hay một "làn sóng" mới, đó là làn sóng
    CNTT. Cùng với sự xuất hiện này, tất yếu dẫn đến những đòi hỏi thay đổi một cách toàn
    diện các phương thức vốn được coi là hợp lý trước đây đối với việc vận hành và phát triển
    xã hội.
    2.2. Nghiên cứu ở trong nước
    - Có nhiều tác phẩm viết về vai trò của CNTT trong đời sống như: CNTT - Tổng
    quan và một số vấn đề cơ bản, của Ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia về CNTT, Nxb.
    Giao thông vận tải, Hà Nội, năm 1997; Kỷ yếu hội thảo khoa học Kinh tế tri thức và những
    vấn đề đặt ra đối với Việt Nam của Ban Khoa giáo Trung ương, Bộ KHCN và Môi trường
    và Bộ Ngoại giao, Hà Nội, năm 2002; Ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp
    CNH, HĐH của Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương, Nxb.
    Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2001; Chủ nghĩa tư bản và thời đại thông tin của Bộ
    KHCN và Môi trường, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm 2001; CNTT Hà Nội cất cánh của
    Hội Tin học Việt Nam, tạp chí Tin học và Đời sống, (số 3, 5, 6, 9, 11); Thương mại Điện
    tử, tác giả Vũ Ngọc Cừ, Trịnh Thanh Lâm, Nxb. Giao thông vận tải, năm 2001; Đề án Tin
    học hóa hoạt động các cơ quan Đảng tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2001-2005 và những năm
    tiếp theo, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc ban hành, năm 2003; Đề án Tin học hóa hoạt động các cơ
    quan QLHCNN tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2001-2005, UBND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành,
    năm 2002.
    Tuy nhiên, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách hệ thống về ứng dụng CNTT
    phục vụ phát triển KT-XH tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
    23. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa của luận văn của luận văn
    32.1. Mục đích
    Luận văn có mục đích phân tích, đĐánh giá thực trạng ứng dụng CNTT ở tỉnh Vĩnh
    Phúc, từ đó đề xuất những giải pháp để đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong việc phục vụ phát
    triển KT - XH của tỉnh Vĩnh Phúc.
    32.2. Nhiệm vụ
    Để thực hiện được mục tiêu của đề tài, luận văn xác định các nhiệm vụ sau đây.
    - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về CNTT và ứng dụng CNTT.
    - Đánh giá thực trạng và những yếu tố tác động đến ứng dụng CNTT của tỉnh Vĩnh
    Phúc.
    - Xác định những yếu tố định hướng liên quan đến phát triển CNTT của tỉnh Vĩnh
    Phúc.
    - Làm rõ kinh nghiệm một số tỉnh, thành phố trong nước trong việc ứng dụng CNTT
    phục vụ phát triển KT-XH, rút ra bài học cho tỉnh Vĩnh Phúc.
    - Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT-XH
    của tỉnh Vĩnh Phúc.
    4. ĐĐối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
    - Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào c4.1. Đối tượng
    Quá trình ứng dụng CNTT phục vụ phát triển KT-XH tại các cơ quan trong hệ thống
    chính trị của tỉnh Vĩnh Phúc gồm các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và các tổ chức xã
    hội.
    4.2. Phạm vi
    - Để thuận lợi cho việc thu thập tư liệu, luận vănĐề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu
    ứng dụng CNTT của các cơ quan quản lý nhà nước tỉnh Vĩnh Phúc từ ngày tái lập tỉnh
    01/01/1997 đến nay. Luận văn không nghiên cứu về phát triển công nghiệp CNTT, thị
    trường, kinh doanh sản phẩm CNTT và các giải pháp liên quan đến kỹ thuật CNTT; luận
    văn cũng không đề cập đến các đối tượng ứng dụng CNTT như: nhân dân, doanh nghiệp
    và các đơn vị tương đương như: trường học, bệnh viện
    53. Tình hình nghiên cứu của đề tài
    3.1. Nghiên cứu ở ngoài nước
    Ở ngoài nước, đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về vai trò của CNTT đối với phát
    triển KT - XH. Tuy nhiên trong nguồn tham khảo hạn chế của mình, tác giả luận văn đã
    tiếp cận được một số tác phẩm nghiên cứu như: Văn minh của làn sóng thứ ba, tác giả
    Allvin Toffler, Hetdi Toffler, NXB. Thanh niên, Hà Nội, năm 1998; Làn sóng thứ ba, tác
    giả Allvin Toffler NXB. Thanh niên, Hà Nội, năm 2002; Cú sốc tương lai, tác giả Allvin
    Toffler, NXB. Thanh niên, Hà Nội, năm 1998.
    3.2. Nghiên cứu ở trong nước
    - Trong thời gian qua ở trong nước đã có nhiều tác phẩm viết về vai trò của CNTT
    trong đời sống như: CNTT - Tổng quan và một số vấn đề cơ bản, của Ban chỉ đạo Chương
    trình Quốc gia về CNTT, NXB. Giao thông vận tải, Hà Nội, năm 1997; Kỷ yếu hội thảo
    khoa học Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam của Ban Khoa giáo
    Trung ương, Bộ KHCN và Môi trường và Bộ Ngoại giao, Lưu hành nội bộ, Hà Nội, năm
    2002; Ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH của Ban Tư tưởng
    văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
    năm 2001; Chủ nghĩa tư bản và thời đại thông tin của Bộ KHCN và Môi trường, Lưu hành
    nội bộ, Hà Nội, năm 2001; CNTT Hà Nội cất cánh của Hội Tin học Việt Nam, tạp chí Tin
    học và Đời sống, (số 3, 5, 6, 9, 11); Thương mại Điện tử, tác giả Vũ Ngọc Cừ, Trịnh
    Thanh Lâm, NXB. Giao thông vận tải, năm 2001; Đề án Tin học hóa hoạt động các cơ
    quan Đảng tỉnh Vĩnh Phúc, giai đoạn 2001-2005 và những năm tiếp theo, Tỉnh ủy Vĩnh
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...