Tài liệu tỷ lệ thất nghiệp

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    tỷ lệ thất nghiệp

    Ông Lê Duy Đồng, Thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Trưởng ban điều tra lao động việc làm Trung ương đưa ra giải thích vì sao nguyên nhân tỷ lệ thất nghiệp tại các vùng kinh tế trọng điểm lại cao hơn các vùng khác.

    + So với năm 2004, tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể nhưng lại tăng cao ở những vùng kinh tế trọng điểm. Nguyên nhân do đâu, thưa ông?
    Thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội từ năm 2001 tới nay cho thấy, lực lượng lao động đang tiếp tục tăng với tốc độ cao; bình quân mỗi năm tăng 2,4%, tương đương với khoảng hơn 1 triệu lao động.
    Trong đó, khu vực thành thị tăng gấp 2,5 lần so với nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động khu vực thành thị trong cả nước từ 15 tuổi trở lên là 5,1% và trong độ tuổi lao động là 5,3%, giảm 0,3% so với năm 2004; trong độ tuổi từ 15-24 là 13,4%, giảm 0,5%.
    Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động lại cao ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng (5,6%) tiếp đến là Đông Bắc và duyên hải miền Trung (5,1%-5,5%); các vùng khác tỷ lệ này ở mức dưới 5%. Trong ba vùng kinh tế trọng điểm, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là 5,7%; hai vùng còn lại ở mức 5,6%.
    Các vùng kinh tế trọng điểm giữ vị trí đứng đầu trong phát triển kinh tế - xã hội, khoa học công nghệ tiên tiến cho nên thị trường lao động phát triển sâu rộng và đòi hỏi chất lượng lao động cao. Trong khi đó, không ít ngành nghề đào tạo lại không phù hợp với yêu cầu của thị trường, dẫn đến lao động không có nghề có tỷ trọng lớn ngày càng khó có cơ hội tìm việc làm.
    Điều này có thể giải thích vì sao ở các vùng kinh tế trọng điểm tuy quy mô đầu tư lớn, tốc độ tăng trưởng cao nhưng tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động, đặc biệt là lao động ở độ tuổi 15-24 cao hơn so với tỷ lệ trung bình của cả nước và cao hơn hẳn so với các vùng kinh tế chậm phát triển.
    + Như vậy có đáng lo ngại trước tình trạng số lượng lao động tăng không song hành với chất lượng lao động, thưa ông?
    So với năm 2004, lực lượng lao động nước ta được bổ sung 1,143 triệu người, hầu hết là lao động trẻ, nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo không cao. Chất lượng lao động và số lượng lao động tăng không song hành đang làm gia tăng áp lực việc làm ở nước ta.
    Theo kết quả từ cuộc điều tra, bình quân hàng năm giai đoạn 2001- 2005, số lao động đã qua đào tạo tăng 12,9%, như vậy mỗi năm có 983.000 lao động đã qua đào tạo bổ sung vào lực lượng lao động. Tuy nhiên, đến nay, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo mới chiếm 24,8% tổng lực lượng lao động, chưa đạt chỉ tiêu 30% được xác định tại Đại hội Đảng lần thứ IX.
    Đó là chưa kể tới chất lượng lao động đã qua đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động phát triển, đặc biệt là các vùng kinh tế trọng điểm, các khu đô thị tập trung.
    Khoảng trống việc làm ở các vị trí có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tay nghề giỏi vẫn chưa được lấp đầy, mặc dù trong lực lượng lao động vẫn đang có một số lượng không nhỏ lao động đã qua đào tạo, kể cả bậc cao đẳng, đại học thiếu việc làm.
    Bên cạnh đó, sự cách biệt về trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động giữa thành thị và nông thôn còn lớn, điều này sẽ gây bất lợi cho khu vực nông thôn trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dưới tác động ngày càng mạnh của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập, toàn cầu hoá về kinh tế.
    + Vậy sức ép việc làm không chỉ đối với lao động nông thôn mà với lực lực lao động trẻ ở khu vực thành thị sẽ là rất lớn và đây sẽ là một khó khăn lớn khi chúng ta đang chuẩn bị bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, thưa ông?
    Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trẻ (15 -24 tuổi) tại khu vực thành thị là 13,4%, cao hơn 8% so với tỷ lệ thất nghiệp chung của lực lượng lao động khu vực này.
    Điều này xảy ra phổ biến tại các khu đô thị tập trung, các vùng kinh tế trọng điểm, vì khoảng cách giữa cung và cầu trên thị trường lao động vẫn đang có độ dãn lớn. Đây là bất cập đáng lo ngại, đặc biệt khi Việt Nam hội nhập sâu hơn và yêu cầu về đổi mới khoa học - công nghệ không ngừng tăng.
    Ví dụ ở một doanh nghiệp 100% vốn đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam, chủ doanh nghiệp này nhất quyết đưa lao động sang nhà máy tại Việt Nam làm việc cho dù mức lương phải trả tới 5.000 USD/tháng chỉ vì không tuyển được lao động địa phương có đủ trình độ. Nếu tuyển lao động nước ta tại vị trí đó, doanh nghiệp chỉ phải trả 200- 500 USD/tháng.
    Điều này cho thấy sự hạn chế về trình độ đào tạo của người lao động đang làm giảm khả năng tiếp cận với khoa học - công nghệ, đồng thời tiếp tục tăng sức ép việc làm lên chính những lao động đã qua đào tạo.
    + Để cải thiện dần tình trạng trên, theo ông cần phải có những cơ chế và giải pháp gì?
    Cần đưa ra một cơ chế phù hợp tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển. Song hành là những giải pháp tăng đào tạo cho lực lượng lao động, bao gồm cả đào tạo lực lượng lao động chất xám.
    Một trong những chính sách quan trọng nhất là tiền lương, thu nhập của người lao động. Chính sách tiền lương cần được mở theo xu hướng không quy định mức lương khung đồng đều cho từng vị trí ở các thành phần doanh nghiệp khác nhau, mà điều này phải để cho thị trường lao động điều tiết.
    Với độ thoáng của tiền lương, ở đâu có chất lượng lao động tốt, ở đó tiền lương, thu nhập của người lao động sẽ cao.
    Theo Thời Báo Kinh Tế Việt Nam
    Thông tin trên vừa được công bố tại hội nghị Công bố kết quả điều tra lao động việc làm năm 2005 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội ngày 17/11.
    Theo ông Nguyễn Trọng Phu, Vụ trưởng, Uỷ viên thường trực ban chỉ đạo điều tra lao động việc làm Trung ương, trong ba vùng kinh tế trọng điểm, tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị vùng Bắc bộ là 5,7%, hai vùng còn lại ở mức 5,6%.
    Số lao động thất nghiệp có tuổi từ 15 trở lên ở khu vực thành thị là 567.771 người, chiếm 5,13%. Còn trong độ tuổi lao động là 562.269 người, chiếm 5,31% trong tổng số lao động.
    Tính trung bình tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trẻ từ 15-24 tuổi là 13,4%, giảm hơn 0,5% so với năm 2004.
    Nguyên nhân tỷ lệ thất nghiệp cao ở khu vực thành thị là do thị trường lao động phát triển sâu rộng đòi hỏi chất lượng lao động cao, trong khi đó không ít ngành nghề đào tạo lại không phù hợp với yêu cầu của thị trường. Cùng đó, lao động không nghề có tỷ trọng lớn nên càng ngày càng khó có cơ hội tìm việc làm.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...