Tiến Sĩ Tỷ lệ nhiễm và mang gen kháng cephalosporin thế hệ 3 và quinolon của các chủng Klebsiella gây nhiễm

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 8/1/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC
    NĂM 2014
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Giống Klebsiella là một trong các hệ vi khuẩn có ở đường tiêu hóa, hô hấp của
    người. Nó có thể sống trong tự nhiên. Các loài Klebsiella spp. (K. pneumoniae, K.
    ozane, .) là căn nguyên của một số bệnh nhiễm khuẩn ở người (nhiễm khuẩn hô hấp,
    tiết niệu, nhiễm trùng huyết, .), gây bệnh chủ yếu ở trẻ nhỏ. Đặc biệt, Klebsiella spp
    là một trong những vi khuẩn hàng đầu gây nhiễm khuẩn bệnh viện. Vi khuẩn này có
    khả năng kháng kháng sinh ngày một gia tăng, nhất là những chủng sinh men βlactamase
    phổ rộng hoặc cephalosporinase [3], [40].

    Trên thế giới loài Klebsiella spp là một trong những căn nguyên quan trọng
    gây nhiễm khuẩn ở bệnh nhi nằm điều trị tại bệnh viện đặc biệt là những trẻ sơ sinh
    non yếu và trẻ nhỏ. Có sự xuất hiện những chủng đa kháng kháng sinh và là nguyên
    nhân tử vong của nhiều bệnh nhân. Tỷ lệ nhiễm khuẩn do Klebsiella ở trong bệnh
    viện đặc biệt là những đơn vị hồi sức cấp cứu rất khác nhau giữa các nước từ 10,2%26,2%
    [3],[68].Tình trạng kháng với hầu hết các kháng sinh đang là một mối đe doạ lớn
    đối với thầy thuốc và người bệnh. Với kháng sinh thông thường như Ampicillin,
    Cephazolin, Klebsiella spp. đã kháng cao 60%-100% [3]. Phát hiện gen kháng kháng
    sinh nhóm quinolon lan truyền qua plasmid là mốc quan trọng trong nghiên cứu về
    gen kháng kháng sinh của vi khuẩn này[78]. Xuất phát từ tình trạng trên đã có nhiều
    nghiên cứu về cơ chế kháng kháng sinh được tiến hành với mục đích tìm căn nguyên
    của sự gia tăng tính kháng kháng sinh của Klesiella, trong đó cơ chế kháng
    cephalosporin thế hệ 3 và quinolon được nghiên cứu ở nhiều nước.
    Ở Việt Nam, Klebsiella là căn nguyên hàng đầu gây nhiễm khuẩn hô hấp
    phân lập được chủ yếu ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ nằm điều trị tại bệnh viện, chủ yếu
    tại các đơn vị hồi sức cấp cứu. Tỷ lệ nhiễm khuẩn do Klebsiella spp. thay đổi theo
    các yếu tố khác nhau: đối tượng nhiễm bệnh, lứa tuổi bệnh nhân Thêm vào đó, tỷ
    lệ chủng Klebsiella spp. kháng và đa kháng kháng sinh cao với ampicillin và
    cephalotin kháng 97,8% và 91,7% ở trẻ em [1], [4], [15], [16]. Những nghiên cứu
    tìm hiểu về tình trạng mang gen mã hóa sinh men β-lactamase phổ rộng gây kháng cephalosporin thế hệ 3 và quinolon lan truyền qua plasmid chưa được thực hiện nhiều
    ở Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu:
    1- Xác định tỷ lệ chủng Klebsiella phân lập được ở đường hô hấp của các
    bệnh nhi 0 đến 6 tuổi tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2009-2010.
    2- Xác định tính kháng kháng sinh của các chủng Klebsiella phân lập
    được.
    3- Xác định tỷ lệ mang gen kháng cephalosporin thế hệ 3 và quinolon của
    các chủng Klebsiella phân lập được.
    Tóm tắt những kết luận mới của luận án:
    1. Với 3.567 mẫu bệnh phẩm đường hô hấp của bệnh nhi 0 đến 6 tuổi ở các khoa HSCC, Sơ sinh, HSN và khoa Hô hấp , tỉ lệ nuôi cấy dương tính là 33,1%. Trong các loài vi khuẩn phân lập được, trực khuẩn gram âm chiếm đa số. K.pneumoniae chiếm hàng đầu 22,61%, theo sau là Acinetobacter spp 19,9% vàp.aeruginosa là 18,37%.
    2. Với 3.567 mẫu bệnh phẩm đường hô hấp của bệnh nhi 0 đến 6 tuổi ở các khoa HSCC, Sơ sinh, HSN và khoa Hô hấp được chia thành hai nhóm NKHHCT và NKHHCT kết hợp. Kết quả cho thấy:
    - Tỷ lệ nuôi cấy dương tính NKHHCT là 37,4%; Trực khuẩn gram âm chiếm đa số trong đóK.pneumoniae chiếm hàng đầu 24,1%, theo sau là P.aeruginosa là 17,4%. Tỷ lệ phân lập được chủngK. pneumoniae ở khoa Sơ sinh là cao nhất chiếm 13,0%, tiếp đến khoa Hô hấp 8,7% và thấp nhất là khoa Hồi sức cấp cứu 4,2%
    - Tỷ lệ nuôi cấy dương tính NKHHCT kết hợp là 28,1%; Trực khuẩn gram âm chiếm đa số, trong đóAcinetobacter. spp chiếm hàng đầu 29,8%, theo sau làK.pneumoniae 20,3%. Tỷ lệ K.pneumoniaephân lập được cao nhất ở khoa Sơ sinh chiếm 14,3% sau đó là HSCC và HSN.
    - Cầu trùng Gram dương phân lập được ở nhóm NKHHCT cao hơn nhóm NKHHCT kết hợp.
    3. Các chủng Klebsiella kháng cao với kháng sinh nhóm cephacosporin thế hệ 2, 3, 4 từ 86,8% đến 95%. Các chủng K.pneumoniae kháng hầu hết kháng sinh cefuroxime: 93,8%, cephalothin 95,1% và ampicilin 99,2%- 100%, các kháng sinh nhóm aminoglycoside kháng cao với tỷ lệ 65,8% đến 79,4% và còn nhạy đối với imipenem và ciprofloxcin. Tỷ lệ đa kháng cao, có nhiều kiểu đề kháng, chủ yếu là kiểu đề kháng 9 đến 12 loại kháng sinh(75%). Xuất hiện chủng kháng với tất cả các kháng sinh thử nghiệm. Tỷ lệ K. pneumoniae kháng ≥9 kháng sinh ở bệnh nhi tử vong cao hơn những chủng K. pneumoniae kháng < 9 kháng sinh ở bệnh nhi tử vong. tỷ lệ K. pneumoniae kháng ≥9 kháng sinh ở nhóm NKHHCT kết hợp cao hơn hẳn nhóm NKHHCT.
    Tỷ lệ sinh ESBLs ở các chủng K.pneumoniae phân lập được là 56,9%, cao nhất ở khoa Hồi sức ngoại 71,8% và có sự khác biệt giữa các khoa.
    Kết quả xác định nồng độ ức chế tối thiểu MIC[SUB]50 [/SUB]và MIC[SUB]90[/SUB] của chúng tôi đã khẳng định mức độ kháng kháng sinh nhóm β-lactamin của các chủng K. pneumoniae trong nghiên cứu là rất cao.
    4. Tỷ lệ mang gen kháng C[SUB]3[/SUB]G và qinolon trong nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mang gen kháng C[SUB]3[/SUB]G cao: CTXM- 3; 30,8%; CTXM-9: 73,8%; SHV: 88,8%; TEM: 80,4%. Tổng họ CTXM: 92,5%, tỷ lệ chủng mang đồng thời gen CTX-M-3 và CTX-M-9 trong nghiên cứu 10,3%. Tỷ lệ đồng thời mang tất cả các gen kháng C[SUB]3[/SUB]G là 85%. Tỷ lệ mang gen kháng qnr là 38,3%. Trong đó qnrA: 2,4%; qnrB: 17% và chủ yếu là qnrS: 80,6%. Tỷ lệ đồng thời mang gen kháng C[SUB]3[/SUB]G và qnr trong nghiên cứu là 22,4% .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...