Thạc Sĩ Tuyển chọn và phát triển một số dòng, giống lúa mới năng suất cao, chất lượng tốt, kháng bệnh bạc lá

Thảo luận trong 'Khoa Học Tự Nhiên' bắt đầu bởi Bích Tuyền Dương, 26/7/12.

  1. Bích Tuyền Dương

    Bài viết:
    2,590
    Được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. Mở ĐầU
    I.1. Đặt vấn đề
    Cây lúa (Oryza sativa.L) là cây lơương thực quan trọng của nhiều quốc gia. Khoảng 50% dân số trên thế giới đang dùng lúa làm thức ăn hàng ngày. Gần 100% dân số các nơớc Đông Nam Châu á và Châu Mỹ La Tinh dùng lúa làm lơơng thực chính của mình.
    ở Việt Nam, lúa là cây lươơng thực chính trong sản xuất nông nghiệp. Lúa phải đảm bảo lơương thực cho khoảng 82 triệu dân và đóng góp vào việc xuất khẩu. Nông nghiệp Việt Nam có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, chính vì vậy từ trươớc đến nay Đảng và Nhà nơước ta rất quan tâm và có những chủ trơương đúng đắn để đẩy nhanh sự phát triển kinh tế, xã hội cho khu vực này. Đặc biệt từ sau nghị quyết 10 của Trung Ươơng Đảng ra đời, đến nay trong sản xuất nông nghiệp có những bơước phát triển vươợt bậc. Năm 1997 Việt Nam đã trở thành một quốc gia xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan. Tuy thế nền nông nghiệp nơước ta còn lạc hậu, cơ sở sản xuất còn nghèo nàn thiếu thốn, năng suất bình quân vẫn còn thấp hơn so với nhiều nơước khác.
    Đồng bằng Sông Hồng bao gồm 11 tỉnh là vùng đồng bằng lớn thứ hai với ngành sản xuất nông nghiệp chính là lúa nước. Trong đó Bắc Ninh, có tổng diện tích đất tự nhiên là 803,87 km2, với dân số hơn 987.400 ngơời. Nền nông nghiệp của Bắc Ninh rất phát triển, với diện tích đất nông nghiệp chỉ là 47.018 ha, trong đó diện tích đất trồng lúa mầu là 44.003 ha đã tạo ra giá trị sản xuất nông nghiệp là 3.232,519 tỉ đồng/năm (trồng trọt: 1.830,674 tỉ đồng (56,6%): chăn nuôi: 1.272,481 tỉ đồng (39,4%); dịch vụ: 129,364 tỉ đồng (4%)), đã góp phần không nhỏ cho việc an ninh lơơng thực, ổn định và nâng cao đời sống xã hội cho nhân dân. ( theo nguồn thống kê năm 2005).
    Là một trong những huyện sản xuất lúa lớn nhất của tỉnh Bắc Ninh, Quế Võ có diện tích trồng lúa cả năm khoảng 16.901 ha, thu nhập của ngơười nông dân chủ yếu là từ trồng lúa và chăn nuôi trong quy mô hộ gia đình.
    Theo điều tra sơ bộ, hiện nay cơ cấu giống lúa trên địa bàn huyện Quế võ khá đơn giản, việc áp dụng một số giống lúa chất lơợng cao chơa đơợc nhiều. Diện tích cấy lúa thuần chủ yếu là các giống lúa cũ nhơ : Q5(54%), Khang dân 18(20%), VH1 (10%), các giống lúa nếp (7%), Tám xoan(0.4%), các giống khác(7%).
    Qua nhiều năm, việc gieo trồng các giống lúa này đã có xu hơớng giảm năng suất, đòi hỏi đầu tơ phân bón, thuốc trừ sâu bệnh ngày càng tăng. Với việc tiếp tục sử dụng các giống lúa cũ đã làm giảm hiệu quả kinh tế cho ngơời nông dân. Một số vùng đã đơa lúa lai có năng suất cao vào gieo trồng nhơng khả năng chống chịu sâu bệnh kém đặc biệt là bệnh bạc lá do vậy chơa đáp ứng đơợc về chất lơợng sản phẩm. Trong khi đó nhu cầu của đại bộ phận nhân dân trong huyện về ăn ngon và việc phát triển nông nghiệp theo hơớng hàng hoá, cung cấp cho thành phố Bắc Ninh và các vùng phụ cận ngày càng cao.
    Trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thực tế trên, để nhanh chóng đơa các giống lúa mới năng suất cao, chất lơợng tốt vào cơ cấu cây trồng, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định và nâng cao đời sống cho nhân dân Bắc Ninh, chúng tôi tiến hành đơa vào hệ thống khảo nghiệm so sánh và trình diễn những dòng, giống lúa mới có triển vọng ở địa bàn Quế Võ – Bắc Ninh và thực hiên đề tài:
    Tuyển chọn và phát triển một số dòng, giống lúa mới năng suất cao, chất lượng tốt, kháng bệnh bạc lá ở Quế võ – Bắc Ninh
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...