Sách Tướng mệnh khảo luận

Thảo luận trong 'Sách Triết Lý' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Thế gian việc như ý thì ít, việc bất như ý lại nhiều, người đắc chí chẳng có bao nhiêu, mà người bất đắc chí thì hằng hà sa số.
    Ngàn xưa như thế, ngày nay cũng vậy.
    Bất luận là phương Đông hay phương Tây.
    Tại sao?
    Đó là một câu hỏi gắn liền với đời sống nhân loại ngay từ khi loài người nhận thấy sự thọ yểu của mỗi sinh mệnh. Nó lại càng gây thắc mắc hơn khi con người sống tụ thành xã hội và nhận thấy lẽ cùng thông trong đời sống.
    Phải chăng cùng thông thọ yểu là do sự an bài của đấng tối linh trời, phật, thượng đế như các tín ngưỡng tôn giáo lập luận.
    Hoặc ngược hẳn lại theo triết lý nhân văn (humanisme), khoa học, phương pháp học (Descartes), ý chí quyền lực (volonté de puissance) – Nietszche và Mác Xít – tất cả là do con người định.
    Vũ trụ chung quanh ta không chống lại ta mà cũng không ban ân huệ cho ta. Nó quay cuồng, đảo lộn, không hề có mưu định gì cả. Trong quay cuồng đảo lộn, chính con người tự điều khiển, tự cai quản, vượt mọi trở ngại để chiến thắng.
    Alain gọi là “Ulysse nageant” (Ulysse, một nhân vật tượng trưng cho sự chiến đấu của con người trong sử ca của Homer, tác giả cổ xưa thời kỳ văn minh Hy Lạp. Sức mạnh thiên nhiên biển cả sóng lớn đã không cản được Ulysse đến chỗ ông định trốn).
    Đọc bộ “Comédie humaine” của văn hào Honoré de Balzac, ta thấy rất nhiều nhân vật tương tự: Vautrin, tên đầu trộm đuôi cướp sau trở thành tổng giám đốc công an, Rastignac, tên điếm đàng làm thủ tướng Pháp, trong khi những người như Louis Lambert, Rabourdin tài giỏi, đức độ lại ngậm đắng nuốt cay, thất bại ê trề. Không phải Balzac đã tưởng tượng mà ông đã kể lại toàn chuyện thực của Paris thời ấy, thời cực thịnh cho chủ nghĩa hãnh tiến ăn may. Có biết bao nhiêu Ulysse chiến đấu nhưng không chống lại bọn “arriviste” nghĩa là bọn có thời vận, tốt số, may hơn khôn.
    Lénine từng nói: “Tuyệt vọng đưa dẫn người ta đến tín ngưỡng”. (Perte de l’esperance conduit à la croyance). Nếu ông nghĩ đến viên đạn của kẻ ám sát ông chỉ đi lệch một chút thôi không trúng vai mà trúng đầu ông, chắc ông sẽ giật mình với sự kỳ lạ của số mệnh.
    Hitler tuyệt đối tin vào ý chí quyền lực. Các sử gia đã đưa nhiều bằng cớ cho thấy nhà lãnh tụ quốc xã luôn luôn lo lắng tới số mệnh.
    Tục ngữ Trung Quốc có câu: “Vị sinh nhân, tiên tạo mệnh”.
    Số mệnh được tạo thành lúc con người chưa chui ra khỏi bụng mẹ.
    Tìm hiểu số mệnh là mục tiêu của khoa học tướng mệnh để giải thích những điều:
    Tảo vận Cam La vãn Thái Công
    Thạch Sùng phú quý Phạm Đan cùng
    Bành Tổ thọ trường Nhan Tử đoản.
    Tại sao Cam La, 12 tuổi đăng đàn bái tướng còn ông Lã Vọng 90 tuổi mới gặp Chu Văn Vương?
    Tại sao Thạch Sùng, châu báu đầy nhà, còn Phạm Đan chạy ăn từng bữa?
    Tại sao ông Bành Tổ sống lâu, còn thầy Nhan Hồi chết sớm?
    Tại trời cả? Quyền phán xét dành cho Thượng Đế?
    Khoa tướng mệnh phủ nhận lý luận tại trời theo cái nghĩa cho hay muôn sự tại trời hoặc hoá công sao khéo trêu ngươi, ý chỉ vào một đấng tối linh an bài, con người vô năng không thể biết và cũng chẳng làm gì được đối với sự an bài đó.
    Thu vào hai chữ “tại trời” thôi thì vẽ vời bầy đặt tướng số là việc làm thêm nhiễu sự.
    Thiên mệnh theo khoa tướng mệnh không chấp nhận trời như một đấng tối linh mà trời đây là sự kết hợp của ngũ hành: kim, mộc, thủy, hoả, thổ, tức năm chất tố cấu tạo thành vũ trụ, và âm dương tức hai khí chất làm chuyển động vũ trụ.
    Bởi vậy, để trả lời tại sao:
    Tảo vận Cam La vãn Thái Công

    Khoa tướng mệnh đã nói kết gọn vào câu:
    Lục nhân đô tại ngũ hành trung.
    Sáu người ấy đều ở trong sự vận chuyển của ngũ hành.
    Giàu sang, phú quý, cơ cực, bần tiện, cùng thô, thọ yểu đều do mệnh vận và tướng cách mà biết. Tính mệnh vận đặt trên nguyên tắc toán số, xem tướng cách đặt trên nguyên tắc cơ cấu kiến trúc và mỹ học, tuyệt đối không là dị đoan mê tín. Nó chống lại quan niệm mê muội thần quyền và làm giầu thêm cho khoa học nhân văn.
    Nhà xã hội học không thể dùng bất cứ nguyên tắc nào của khoa này để giải nghĩa nổi tại sao Vương Hiển Văn, bạn rất thân của vua Đường Thái Tôn từ lúc vua Đường Thái Tôn chưa chiếm được thiên hạ mà Văn lại chết trong cảnh nghèo khổ? Lúc Đường Thái Tôn vừa cho người đến đón Vương Hiển Văn về triều cùng cai trị muôn dân thì ngay đêm hôm ấy Văn bị bạo bệnh chết. Một nhà tướng mệnh học lúc bấy giờ là Lý Thuần Phong đã xem tướng cho Vương Hiển Văn mà nói trước cả chục năm rằng:
    - Tướng cách ông tai ám vô sắc, mi tán vô thái, mắt tán vô thần, con ngươi đen vô quang nhất định không thể cao sang được.
    Tại Trung Quốc vào những năm đầu cách mạng Tân Hợi, ai cũng đều biết cái tên Trương tôn Xương xuất thân làm bồi bàn, văn bập bẹ đôi ba chữ, võ chẳng biết miếng nào, binh thư đồ trận lại càng mù tịt, thế mà ông ta đã một thời kỳ làm mưa làm gió trên chính trường miền Bắc. Khi ông làm Tổng Đốc tỉnh Sơn Đông, gặp kỳ hạn hán, dân chúng theo tục lệ cổ, mời quan Tổng Đốc đến Long Vương Miếu lập đàn cầu mưa. Trước bàn thờ, sớ ông không biết đọc, khấn ông không biết khấn. Bực mình, Trương Tôn Xương lấy tay chỉ mặt tượng thần mà nói: “Đ M không mưa làm bách tính khổ mày còn để nắng mãi, tao sẽ đập tan miếu này cho coi”.
    Các kỳ lão trong tỉnh ai nấy đều toát mồ hôi bởi câu chửi của quan Tổng Đốc, nhưng không dám hé răng. Qua ba ngày trời vẫn không mưa. Tổng đốc Trương Tôn Xương liền hạ lệnh cho tiểu đoàn pháo binh đến mười khẩu đại bác xếp hàng trước núi Thiên Phật bắn lên trời. Quả nhiên, hôm sau trời mưa như trút nước.
    Tại sao người như thế mà ở ngôi vị nhất phẩm triều đình?
    Chỉ có thể giải đáp: “Tại mệnh tốt”.
    Trương Tôn Xương sinh năm Nhâm Ngọ, tháng Nhâm Dần, ngày Nhâm Dần, giờ Nhâm Dần. Bốn chữ Nhâm sách gọi bằng Thiên Nguyên nhất khí. Hành chi Dần ngọ hợp thành hoả cục. Nhâm thuộc thủy trúng vào cách thủy hỏa ký tế.
    Thời kỳ Xương làm bồi bàn, thầy số đoán là đại quý mệnh, Xương còn vái thầy số xin đừng riễu cợt, cái thân bồi bàn làm gì đại quý đại phú. Đến lúc Trương Tôn Xương đắc ý, ông giàu đến nỗi tiền của có bao nhiêu không biết, quyền thế đến nỗi quân lính có bao nhiêu không biết, chỗ nào cũng lấy vợ đến nỗi có bao nhiêu vợ không biết. Các thầy số đã phải lấy trường hợp họ Trương làm điển hình để đặt thành cách gọi là cách “Tam bất tri”
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...