Tài liệu Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hêghen

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hêghen




    Nhiều người coi đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền là sự đề cao, tôn vinh pháp luật. Tuy nhiên, theo Hêgen và các triết gia tư sản, đó là một quan niệm chỉ đúng phần nào. Nếu chỉ dừng lại ở quan niệm này thì tư tưởng về nhà nước pháp quyền không khác gì với tư tưởng pháp trị.


    Hêgen là một trong những nhà triết học tiền bối, có nhiều đóng góp trong việc phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền tư sản. Ông đã dùng phép biện chứng, luận chứng cho sự tất yếu ra đời của hình thái Nhà nước pháp quyền tư sản. Như chúng ta đã biết, phép biện chứng của Hêgen và phép biện chứng của Mác, Ph.Ăngghen
    là rất khác nhau (không phải chỉ ở chỗ một bên là duy tâm, một bên là duy vật). Ở đây, chỉ xin tóm lược một số nội dung trong phép biện chứng của Hêgen, khác với phép biện chứng của C.Mác, Ph.Ăngghen nhưng là cơ sở triết lý của Hêgen và của các triết gia tư sản khác về Nhà nước pháp quyền tư sản.


    Theo Hêgen, thế giới thể hiện dưới 3 cấp độ và ở mỗi cấp độ đó, phép biện chứng


    có sự thể hiện rất khác nhau:




    Tồn tại: Đây là cái vỏ bề ngoài, nông nhất mà chúng ta có thể cảm giác được. Các quy định (phạm trù) cơ bản của lĩnh vực này là chất – lượng – độ. Phép biện chứng ở đây là sự chuyển hóa thành mặt đối lập. Vương quốc của chất lượng – độ là thế giới vô cơ (theo Hêgen, trong thế giới hữu cơ, các quy luật của chất – lượng
    – độ chỉ giữ vai trò thứ yếu, bị chi phối bởi các quy định cái phổ quát – cái đặc thù


    – cái đơn nhất).




    Bản chất: Cái tầng sâu hơn của thế giới. Các quy định cơ bản của lĩnh vực nào là đồng nhất, khác biệt, căn cứ, thực tồn ngẫu nhiên, tất yếu, khả năng, hiện thực nhân quả, thực thể Phép biện chứng trong lĩnh vực này là sự hiện hình của cái này trong cái kia của các mặt đối lập.

    Khái niệm (hiện thân của nó là giới hữu cơ, sự sống): Tầng sâu nhất và cũng có thể nói cao nhất của thế giới. Các quy định chủ yếu ở đây là cái phổ quát, cái đặc thù và cái đơn nhất (hoàn toàn khác với cặp phạm trù cái chung và cái riêng của triết học macxít). Phép biện chứng trong lĩnh vực này là sự phát triển.Theo Hêgen, khái niệm là bản chất, là quy luật vận động và phát triển sống động. của giới hữu cơ, nó tồn tại khách quan cũng như các quy luật của thế giới vô cơ. Khái niệm không phải là sản phẩm hoạt động tư duy của chúng ta, do chúng ta sáng tạo ra và đem gán cho sự vật, ngược lại, khái niệm là bản chất, quy luật vận động, phát triển khách quan của sự vật. Tư duy của chúng ta chỉ có thể phản ánh về nó mà thôi.
    Chỉ có những khái niệm chủ quan, không đúng với bản chất của sự vật mới là sản phẩm tư duy của chúng ta. Sản phẩm cao nhất trong sự phát triển của cuộc sống, theo Hêgen, đó là ý niệm tuyệt đối. Ý niệm tuyệt đối, theo Hêgen, trước hết đó là “sự thống nhất giữa ý niệm lý luận và ý niệm thực tiễn và do đó cũng là sự thống nhất giữa ý niệm cuộc sống và ý niệm nhận thức”.


    Chỉ trong lĩnh vực hữu cơ mới có quy luật phủ định của phủ định và quy luật này ở Hêgen khác hoàn toàn với ở C.Mác, Ph.Ăngghen. Cả Hêgen và C.Mác, Ph.Ăngghen đều nói: Nhờ quy luật phủ định của phủ định, sự vật quay trở lại với chính mình nhưng ở một trình độ phát triển cao hơn. Tuy nhiên, trong cách diễn giải thì nội dung hoàn toàn khác nhau. Quy luật phủ định của phủ định ở Hêgen không phải là sự phủ định 3 bước như chúng ta thường nghĩ mà là sự phủ định liên tục, không ngừng (Hêgen thường hay gọi là sự phủ định tuyệt đối). Theo Hêgen, bản chất của cuộc sống là cái phổ quát, sự thống nhất bao trùm, không ngừng vận động vượt qua các giới hạn (cái đặc thù) của chính bản thân mình, cái phổ quát
    bao gồm trong nó cái đặc thù và chỉ tồn tại thông qua sự phủ định liên tục cái đặc thù. Trong quá trình phủ định này, không chỉ cái phổ quát được củng cố và phát triển, còn cái đặc thù thì biến mất ngược lại, cái đặc thù cũng càng ngày càng phát triển rực rỡ hơn, sự phát triển của cái phổ quát là tiền đề cho sự phát triển của cái đặc thù và ngược lại, sự phát triển của cái đặc thù là điều kiện để cái phổ quát phát

    triển. Hêgen lấy ví dụ về sự phát triển này như sau: cái cây với tất cả các quy định đặc thù của nó (rễ, thân, lá, cành trong tất cả các giai đoạn phát triển ) đã được chứa đựng trong cái hạt (sau này khoa học đã chứng minh quan điểm này là đúng, nó được chứa đựng dưới dạng gen di truyền). Tuy nhiên, lúc ban đầu, ở dạng cái hạt, cả cái đặc thù (rễ, thân, cành, lá ) và cái phổ quát (cái cây nhìn tổng thể) đều mờ nhạt (dưới dạng cái lý tưởng). Trong quá trình phát triển của cái cây, các giới hạn của cái cây không ngừng bị phủ định (cái mầm bị phủ định thành cây con 1 lá, cây con 1 lá bị phủ định trở thành cây con 2 lá ), nhưng cái cây không biến mất, không chuyển hoá thành cái khác mà là vẫn bảo tồn được mình trong sự phủ định liên tục này và cái cây ở giai đoạn sau phát triển ở trình độ cao hơn cái cây ở giai đoạn trước. Cái cây ở giai đoạn phát triển sung mãn nhất, chính là thời điểm cái đặc thù (sự phân hoá, khác biệt, đối lập trong bản thân nó) bộc lộ rõ nhất. Không thấy ở đâu Hêgen đưa ra các ví dụ về sự phủ định kiểu hạt thóc – cây lúa – bông thóc.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...