Tài liệu Tư tưởng duy tân của Trần Quý Cáp

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tư tưởng duy tân của Trần Quý Cáp


    Tóm tắt. Trần Quý Cáp (1870-1908) là một nho sĩ, chí sĩ nhiệt tâm yêu nước, thiết tha với sự nghiệp cứu nước. Trần Quý Cáp thấu hiểu tình cảnh mất độc lập, tự chủ của nước, của dân, ông đã tiếp thu tư tưởng yêu nước của cha ông ta trong truyền thống, cùng với vốn kiến thức uyên thâm, kiến thức mới tiếp thu, ông đã thể hiện tư tưởng yêu nước theo khuynh hướng duy tân của mình. Tư tưởng và hoạt động cứu nước của ông đại diện cho tư tưởng và hành động của một lớp trí thức nho học Việt Nam trưởng thành đầu thế kỷ XX. Trước tác của Trần Quý Cáp để lại tuy không nhiều nhưng cũng đã thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng của ông từ thế giới quan Nho giáo sang thế giới quan mới mang khuynh hướng dân chủ, như Tặng Phan Bội Châu, Vãn quá Hải Vân sơn, Đà nẵng cảm hoài, Sĩ phu tự trị luận, Tôn chỉ Duy tân, Đánh đổ quan tham lại nhũng, Bài hát khuyến học chữ quốc ngữ, Phản đối cái học từ chương, Nhắn các nhà vọng tộc, Khuyến nông ca, Bài ca hô hào hùn vốn buôn chung, Trúc thất hoành sơn phú, Bài ca trù, Bài thơ cái trống, Bài thơ nước lụt


    Trần Quý Cáp (1870-1908) tự Dã Hàng và Thích Phu, hiệu Thai Xuyên, người thôn Thai La, xã Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo. Ông bản tính thông minh, chịu khó học tập, nên ông đã là một trong sáu người học giỏi ở trường tỉnh lúc bấy giờ, cùng với Phạm Liệu, Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Quang. Kỳ thi năm 1904, ông đỗ Nhất giáp Tiến sĩ, trên Đặng Văn Thụy và Huỳnh Thúc Kháng. Ông từ chối làm quan triều đình. Với lòng yêu nước, ông đã tham gia phong trào Duy tân cùng với Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, cùng các vị này vào Nam Trung bộ để hô hào duy tân, lập các hội tân học, hội nông, hội buôn. Năm 1905, trên đường vào


    phía nam, tại Bình Định, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đã lấy tên Đào Mộng Giác làm bài thơ “Chí thành thông thánh” và “Lương ngọc danh sơn”, bài xích khoa cử, cổ động tân học, gây tiếng vang lớn, lay động tư tưởng hàng trí thức nho học.
    Năm 1906, Trần Quý Cáp nhận chức giáo
    thụ Thăng Bình để thỏa lòng mong mỏi của mẹ già, bản thân ông không muốn nhận. Ông mời thầy dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp tạo không khí mới cho việc học, đồng thời tuyên truyền cho phong trào Đông du.
    Năm 1908, khi ông đang làm giáo thụ ở phủ
    Ninh Hòa (Khánh Hòa ngày nay) được tin ở Quảng Nam và các tỉnh miền trung nhân dân nổi lên đấu tranh chống thuế. Nhà chức trách Khánh Hòa chú ý đến ông với tư cách ông là lãnh tụ của phái tân học. Sau khi phong trào bị đàn áp, nhà chức trách Khánh Hòa đã lục soát

    tài liệu, thư từ của ông, họ tìm thấy thư ông gửi cho bạn có viết “ngô dân thử cử, khoái, khoái!” (dân ta làm như vậy, thích, thích quá!) kết án ông “mạc tu hữu” (tức là không theo khuôn phép, đại phản nghịch, không cần có), xử tử ông tại bãi sông Cạn, cầu Phước Thạnh, phủ Diên Khánh vào ngày 17 tháng 5 năm Duy Tân Mậu Thân (tức ngày 15-6-1908), ông mới 38 tuổi.
    Trần Quý Cáp là một chí sĩ nhiệt tâm yêu nước, thiết tha với sự nghiệp cứu nước. Tư tưởng và hoạt động cứu nước của ông đại diện cho tư tưởng và hành động của một lớp trí thức nho học Việt Nam trưởng thành đầu thế kỷ XX. Trước tác của Trần Quý Cáp để lại tuy không nhiều nhưng cũng đã thể hiện quá trình chuyển biến tư tưởng của ông, thể hiện tư tưởng yêu nước, hy sinh vì dân vì nước của ông, như Phú Hoàn bích quy Triệu, Tặng Phan Bội Châu, Vãn quá Hải Vân sơn, Đà nẵng cảm hoài, Sĩ phu tự trị luận, Tôn chỉ Duy tân, Đánh đổ quan tham lại nhũng, Bài hát khuyến học chữ quốc ngữ, Phản đối cái học từ chương, Nhắn các nhà vọng tộc, Khuyến nông ca, Bài ca hô hào hùn vốn buôn chung, Trúc thất hoành sơn phú, Bài ca trù, Bài thơ cái trống, Bài thơ nước lụt
    Trần Quý Cáp trước hết là một nho sĩ, theo
    con đường khoa cử nho học. Kinh sách Thánh hiền đã trang bị cho ông những kiến thức cơ bản và sâu sắc về nhiều lĩnh vực như bao nho sĩ Việt Nam trong lịch sử và ở thời đó. Ông trưởng thành trong thời kỳ lịch sử đặc biệt, chủ quyền dân tộc không còn, vua quan nhà Nguyễn không còn thực quyền, nhân dân khốn khổ trong vòng kìm kẹp, bóc lột của thực dân, đế quốc, phong kiến. Trần Quý Cáp thấu hiểu tình cảnh đó của nước, của dân, ông đã tiếp thu tư tưởng yêu nước của cha ông ta trong truyền thống, cùng với vốn kiến thức uyên thâm, ông đã thể hiện tư tưởng yêu nước theo khuynh hướng duy tân của mình.
    Trước hết, trong tư tưởng và hành động, Trần Quý Cáp đả kích vào hệ tư tưởng phong kiến, vào chế độ chính trị phong kiến đã từng ngự trị hàng ngàn năm ở nước ta. Hệ tư tưởng phong kiến trong đó Nho giáo đã từng được ông cha ta tiếp biến, có giá trị trong công cuộc dựng

    nước và giữ nước thời phong kiến. Tuy nhiên, trong thời đại của ông, hệ tư tưởng đó đã hoàn toàn bất lực trước việc giải quyết các vấn đề lịch sử dân tộc đặt ra. Giai cấp địa chủ, phong kiến thống trị vẫn sử dụng nó, níu kéo nó mong duy trì vịt trí, vai trò của mình đối với xã hội nhưng thực sự nó đã trở nên lỗi thời.
    Ông đã chứng kiến sự phản động, thất bại
    của triều đình phong kiến trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Ông đã phát triển tư tưởng “trung” của các nho sĩ yêu nước Việt Nam, đó là trung với nước, đặt vị trí, vận mệnh của đất nước, quốc gia, dân tộc lên tối cao, từ đó thể hiện tư tưởng và hành động “trung” của mình. Ông cho rằng làm bề tôi thời nay là trung với nước, dù phải trải gian nguy cũng không thay lòng. Ông tự vấn tại sao đất nước này trở thành nơi chiến trận, khắp nơi thấy dấu vết của “rắn lợn”, thuyền ở bến cảng bán buôn phải cắm cờ tam tài. Ông đã phải thốt lên “an năng tái khởi Trần Hưng Đạo, cọng vãn Đằng Giang vĩ đại công” (Hưng Đạo anh hùng mong nổi dậy, Đằng giang trận mới lại tung hoành)[1, tr.732]. Từ nhận thức về tình cảnh đất nước như vậy, ông muốn đổi mới đất nước. Đổi mới trước hết phải phá bỏ cái chế độ cũ đã phản động, lạc hậu.
    Ông phản đối chế độ phong kiến quý tộc, tạo ra đội ngũ các nhà vọng tộc, chỉ biết ăn lộc của vua, bóc lột dân nhưng lại cam chịu nhục nhã khi bị người ngoại quốc trói buộc trong chế độ bảo hộ.
    Ông cay đắng khi thấy nước mất, dân bị làm nô lệ mà quan lại triều đình vẫn vì cái lợi của mình, của gia đình mà làm ngơ.
    “Dân ta nay cực đà như chó,
    Sao quan còn võng đỏ ngáng ngà

    Dám hỏi may người công khanh, hầu bá
    Ăn cơm vua, cầm quyền nước, ngồi mà lo những chuyên chi chi!
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...