Luận Văn Tự do hóa trong EU & khả năng thâm nhập thị trường EU của hàng hóa Việt Nam

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Thông tin chi tiết
    LỜI NÓI ĐẦU

    Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá nền kinh tế ngày nay, hợp tác kinh tế đang diễn ra theo phương thức song liên kết phương và đa phương giữa những nước và những nước thuộc các khu vực khác nhau, chính sự hợp tác và liên kết kinh tế sẽ tạo điều kiện cho các quốc gia có thể triệt để tận dụng và khai thác triệt để các nguồn lực từ bên ngoài và lợi thế so sánh của mình để đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội của mình. Không thể phủ nhận lợi ích to lớn đạt được do sự hợp tác, liên kết giữa các quốc gia mang lại, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chính vì vậy nhiều tổ chức cũng như các khối liên minh khu vực và quốc tế đã, đang và sẽ còn tiếp tục hình thành. Các khối liên kết này đã thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động kinh tế thương mại, không những chỉ trong nội khối mà còn chi phối mạnh mẽ tới các quốc gia, khu vực khác .
    Xu hướng tự do hoá trong lĩnh vực thương mại phát triển nhanh chóng sẽ dẫn tới hệ quả là biên giới kinh tế giữa các nước bị phá vỡ vì hàng rào thuế quan sẽ bị bãi bỏ, các quan hệ kinh tế tuỳ thuộc vào nhau sẽ phát triển, các thể chế khu vực và toàn cầu sẽ hình thành .Trong điều kiện đó một nền kinh tế muốn độc lập tự chủ, không muốn lệ thuộc vào bên ngoài, muốn tự đảm bảo các nhu cầu thiết yếu, chắc chắn không còn chỗ đứng. Một nền kinh tế hiệu quả, phát triển phải là một nền kinh tế gồm những ngành hàng có lợi thế cạnh tranh cao và sự phát triển của nó phải phụ thuộc vào thị trường thế giới.
    Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đã được khẳng định tại Đại hội VIII và trong nghị quyết 01NQ/TƯcủa Bộ chính trị, với mục tiêu chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Để thực hiện được chủ trương này, cùng với việc đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH chúng ta phải tăng cường mở rộng thị trường xuất khẩu. Đây là viêc làm cấp thiết hiện nay.
    Liên minh Châu âu (EU)là một tổ chức kinh tế khu vực lớn nhất thế giới hiện nay, có sự liên kết tương đối chặt chẽ và thống nhất, được coi là một trong ba “siêu cường” có vị thế kinh tế và chính trị ngày càng tăng(đó là Mỹ, Nhật Bản và EU ). Ra đời năm 1951 với sáu nước thành viên (Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hàlan và Lucxămbua), ngày nay EU đã trở thành một tổ chức liên kết khu vực tiêu biểu nhất của khối các nước tư bản chủ nghĩa. Sau gần 50 năm phát triển và mở rộng, con số thành viên tới nay của EU là 15 nước, và trong tương lai sẽ còn có nhiều nước tham gia, nhằm đi đến một Châu Âu thống nhất. Trong số những nước công nghiệp phát triển, EU có nhiều nước có tiềm lực kinh tế hùng mạnh vào loại hàng đầu thế giới như Đức, Pháp, Italia, Anh .Hiện nay, EU được coi là một tổ chức có tiềm năng to lớn để hợp tác về mọi mặt, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
    Việt nam dã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với cộng đồng Châu âu(EC) vào ngày 22/10/1990, ký hiệp định buôn bán hàng dệt may với Liên Minh Châu Âu (EU) vào ngày 15/12/1992 và ký hiệp định hợp tác với EU vào ngày 17/7/1995. Các sự kiện quan trọng nay chính là nhân tố thúc đẩy quan hệ kinh tế Việt nam-EU phát triển mạnh trên cả ba lĩnh vực (thương mại, đầu tư và viện trợ), đặc biệt là thương mại.
    EU là thị trường lớn có vai trò quan trọng trong thương mại thế giới. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt nam là những mặt hàng mà thị trường này có nhu cầu nhập khẩu hàng năm với khối lượng lớn, như hàng dệt may, thuỷ hải sản, giày dép, .Kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang EU tăng trung bình 36,6%/năm(1995-1999). Mặc dù kim ngạch tăng vối tốc độ nhanh, nhưng tất cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt nam đều đang gặp trở ngại nhất định trên thị trường này do các quy định về quản lý nhập khẩu của EU gây ra. Nếu EU không quản lý chất lượng và áp dụng hạn ngạch quá chặt chẽ và khắt khe đối với một số mặt hàng xuất khẩu của ta thì tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Việt nam-EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam không chỉ dừng ở con số 15,1% ( quá nhỏ bé so với tiềm năng ) như hiện nay. Do vậy, vấn đề đặt ra là chúng ta cần tìm những giải pháp căn bản để mở rộng khả năng xuất khẩu, đồng thời khắc phục những khó khăn trở ngại trong quan hệ thương mại giữa hai bên. Hơn nữa trong điều kiện khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, thị trường khu vực bị thu hẹp lại, thị trường SNG chưa khôi phục lại được, thị trường Mỹ vừa mới hé mở, nên thị trường EU là một sự lựa chọn hợp lý.
    Vì vậyđẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU không chỉ là vấn đề cần thiết về lâu dài mà còn là vấn đề cấp bách trước mắt đối với sự phát triển lâu dài của Việt nam. EU là thị trường xuất khẩu quan trọng có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế không nhỏ đối với ta. Tuy nhiên, để làm được việc này chúng ta phải tập trung nghiên cứu tìm cách giải quyết những vướng mắc cản trở hoạt động xuất khẩu sang EU và tìm ra các giải pháp căn bản để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá vào thị trường EU.
    Hiện nay, Việt nam đang thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu, việc mở rộng thị trường xuất khẩu là một đòi hỏi cấp bách .Vì vậy lựa chọn đề tài “TỰ DO HOÁ TRONG EU VÀ KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG EU CỦA HÀNG HOÁ VIỆT NAM” , với sự hướng dẫn , giúp đỡ của Thầy giáo hướng dẫn em mong muốn được đóng góp phần nào kiến thức của mình vào mục tiêu chiến lược mà Đảng và nhà nước đã đề ra.
    Mục tiêu của đề tài: trên cơ sở đánh giá tiềm năng và triển vọng của thị trường EU đối với hàng hoá của Việt nam,phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng hoá sang EU, đề xuất một số giải pháp để nhằm thâm nhập hàng hoá của nước ta vào thị trường này có hiệu quả.
    Đề cương bao gồm bốn nội dung lớn :

    Chương I : Lý luận chung về tự do hoá thương mại .
    Chương II : Nghiên cứu thị trường EU .
    Chương III : Khả năng thâm nhập hàng hoá của Việt nam vào thị trường EU.

    Chương IV: Một số giải pháp chủ yếu để hàng hoá của Việt nam thâm nhập vào thị trường EU.


    CHƯƠNG I
    Lý luận chung về tự do hoá thương mại

    I. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
    Có thể nói hoạt động buôn bán nói chung và buôn bán quốc tế nói riêng là hoạt động trao đổi hàng hoá, tiền tệ đã có từ lâu đời. Thương mại quốc tế có tính chất sống còn vì một lý do đó là ngoại thương mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một quốc gia. Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước khi thực hiện một nền kinh tế khép kín, TMQT cũng cho phép khai thác các nguồn lực trong nước có hiệu quả, tranh thủ khai thác được mọi tiềm năng và thế mạnh về hàng hoá, công nghệ, vốn .của nước ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Như vậy con người đã sớm tìm ra lợi ích của TMQT, thế nhưng trong mỗi một hoàn cảnh, điều kiện của mỗi quốc gia cũng như từng giai đoạn phát triển của các phương thức sản xuất thì hoạt động ngoại thương lại có những cách hiểu và vận dụng rất linh hoạt, khác nhau và có cả sự đối lập nhau. Chính vì vậy, đã có rất nhiều tư tưởng, lý thuyết được đưa ra để phân tích, giải thích về hoạt động TMQT. Quá trình nghiên cứu của các học giả cũng như các trường phái kinh tế khác nhau trong lịch sử phát triển tư tưởng về TMQT đã đưa ra những lý thuyết để lý giải vấn đề này, khẳng định những tác động của TMQT đối với sự tăng trưởng và phát triển theo trình tự nhận thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ phiến diện đến toàn diện, từ hiện tượng đến bản chất. Để hiểu biết thêm về hoạt động TMQT, cũng như cách nhìn nhận về nó trong những giai đoạn phát triển cụ thể, chúng ta cũng cần xem xét các nhà kinh tế học, các học giả trong mỗi thời kỳ đã đề cập và phân tích TMQT để đưa ra những hướng vận dụng các lý luận về TMQT trong thực tiễn chính sách quốc gia về ngoại thương như thế nào.
    * Trước hết, là tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương. Tư tưởng trọng thương xuất hiện và phát triển ở Châu Âu từ giữa thế kỷ XV, XVI, thịnh hành suốt thế kỷ XVII, tồn tại đến giữa thế kỷ XVIII. Các nhà trọng thương cho rằng chỉ có vàng bạc là thước đo thể hiện sự giàu có của một quốc gia và do vậy mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải làm sao gia tăng được khối lượng vàng bạc tích trữ thông qua việc phát triển ngoại thương và mỗi quốc gia chỉ có thể thu được lợi ích từ ngoại thương nếu giá trị của xuất khẩu lớn hơn giá trị của nhập khẩu. Được lợi là vì thanựgk dư của xuất khẩu so với nhập khẩu được thanh toán bằng vàng, bạc, mà chính nó biểu hiện của sự giàu có. Đối với một quốc gia không có mỏ vàng hay mỏ bạc chỉ còn cách duy nhất là trông cậy vào phát triển ngoại thương. Như vậy xuất khẩu là có lợi và nhập khẩu là có hại cho lợi ích quốc gia. Các nhà trọng thương cho rằng chính phủ phải tham gia trực tiếp vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để đạt được sự gia tăng của cải của mỗi nước. Việc trực tiếp tham gia này theo hai cách: trực tiếp tổ chức xuất khẩu và đề ra các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Từ đó đi tới chính sách là phải tăng cường xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu.
    Đến giai đoạn cuối, trường phái trọng thương có thay đổi và cho rằng có thể tăng cường mở rộng nhập khẩu nếu như qua đó thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn nữa. Mặc dù có nội dung rất sơ khai và còn chứa đựng nhiều yếu tố đơn giản, phiến diện về bản chất của hoạt động ngoại thương, song đó là tư tưởng đầu tiên của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển nghiên cứu về hiện tượng và lợi ích của ngoại thương. Lý luận của trường phái trọng thương là một bước tiến đáng kể trong tư tưởng về kinh tế học. Ý nghĩa tích cực của tư tưởng này đối lập với tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ là coi trọng kinh tế tự cấp, tự túc. Ngoài ra nó đã đánh giá được tầm quan trọng của xuất khẩu và vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết hoạt động XNK để đạt cán cân thương mại thặng dư thông qua các công cụ thuế quan, bảo hộ mậu dịch trong nước . Những tư tưởng này đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng hoạt động thương mại quốc tế và làm cơ sở lý luận hình thành chính sách thương mại quốc tế của nhiều quốc gia.
     
Đang tải...