Tài liệu Tự do hoá tài chính – xu thế và giải pháp chính sách cho ngân hàng việt nam thời kỳ hậu wto

Thảo luận trong 'Tài Chính - Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH – XU THẾ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH
    CHO NGÂN HÀNG VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU WTO


    TS – Nguyễn Đại Lai


    Tài chính là gì: Theo quan điểm khoa học đương đại – Tài chính là các quan hệ lợi ích
    kinh tế giữa các chủ thể khác nhau được biểu hiện bằng tiền. Quá ngắn gọn, nhưng không
    quá khó hiểu. Để có cùng tư duy tiếp cận, tôi xin được cụ thể hơn:


    - Bản chất của tài chính là “quan hệ lợi ích kinh tế”.


    - Phương thức quan hệ thông qua các hoạt động cụ thể như: Tham gia đầu tư, sản xuất
    phân phối theo các quan hệ tỷ lệ hoặc khuôn khổ giới hạn nhất định.


    - Nội dung quan hệ lợi ích là: Doanh thu, lợi nhuận, lợi tức, thuế .


    - Hình thức biểu hiện lợi ích được đo bằng tiền dưới nhiều loại phương tiện khác nhau
    như: tiền mặt, tiền trên tài khoản, tiền điện tử, các loại giấy có giá thông qua các công cụ chủ
    yếu là lãi suất, tỷ giá và giá cả .


    Từ các tiếp cận nói trên, hiểu thế nào về “tự do hoá” tài chính? Hay nói khác đi: trong toàn
    bộ nội hàm của phạm trù “tài chính” hiện nay ở Việt nam, những gì cần “hoá” từ chưa tự do
    hoặc từ tự do ít sang các mức độ tự do nhiều hơn khác nhau? Lộ trình nào cho những vấn đề
    của tài chính có mức độ rủi ro khác nhau trong tiến trình tìm cho những cái đang còn bị trói
    một con đư ng ngày càng đờược tự do nhiều hơn?


    Có thể nói ngay rằng cụm từ “tự do tài chính” bao gi cũng đờược đặt trong một quan hệ tỷ
    lệ hay khuôn khổ giới hạn nhất định theo những điều kiện về không gian, th i gian cờủa một
    nền kinh tế nhất định. Do vậy, các mức độ tự do tài chính xét trong những điều kiện kinh tế
    không gian, th i gian khác nhau là không giờống nhau. Tuy nhiên, với các lĩnh vực khác nhau
    ở các bộ phận khác nhau của thị trư ng tài chính thì luôn có nhờững nhóm quan hệ lợi ích
    được đặt trong những thứ bậc khác nhau về mức độ tự do. Các mức độ tự do luôn có xu
    hướng bị ràng buộc dần (về giá, về lượng, về chủng loại sản phẩm, về loại Định chế tham
    gia cung ứng sản phẩm và về quan hệ sở hữu Công ty hay Định chế tài chính) theo qui luật
    về giới hạn giảm dần của lợi ích trong quá trình chia sẻ lợi ích, hay còn gọi là qui luật va đập
    hoặc xung đột lợi ích mạnh dần và rủi ro tăng dần - Các quan hệ kinh tế nào càng kỳ vọng có
    lợi ích cao hơn hoặc ở những qui mô lớn hơn thì rủi ro cũng sẽ cao hơn cho một trong 2 bên
    hoặc chung cho nền kinh tế và do đó, mức độ ràng buộc thông thư ng càng phờải chặt chẽ
    hơn. Chỉ có trình độ quản trị, kiểm soát, tính minh bạch của Pháp luật và công nghệ càng cao
    mới có điều kiện để càng nới lỏng các ràng buộc tạo điều kiện cho tổng lợi ích thu được là
    lớn hơn các rủi ro có thể phát sinh trong các quá trình nới lỏng đó. Có thể tạm phân loại các
    mức độ “tự do” từ cao xuống thấp bao gồm các thang bậc ràng buộc sau đây: Tự
    nguyện=>thoảướ c=>thoả thuận=>cung cầu=>Pháp lý.


    Từ cách tiếp cận nói trên, xét các mối quan hệ lợi ích nói chung và trên thị trư ng tài chính
    nói riêng dù bao gồm các quan hệ, các nhân tố đan xen vô cùng phức tạp, chúng ta vẫn có
    thể “phân tổ” thành những thang bậc khác nhau cho những nhóm quan hệ lợi ích theo những
    đẳng cấp khác nhau mà giữa các nền kinh tế thị trư ng khác nhau chờỉ khác nhau về qui mô
    và hình thức biểu hiện. Có thể đưa ra những ví dụ minh hoạ đơn giản dưới đây:


    - Ngư i có tiờền luôn có quyền tự mình tìm nơi sử dụng hoặc đầu tư vào nơi có lợi nhất
    như: trực tiếp chuyển vào sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng hay gián tiếp đầu tư vào
    nhà băng, vào thị trư ng tài sờản, hoặc vào TTCK .Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ tự nguyện
    – mang lại lợi ích có tính cục bộ, cá nhân, đơn vị song rất có thể gây tác hại nhiều hơn cho
    qui mô nền kinh tế nếu các cá nhân, đơn vị không tuân thủ “luật chơi” chung .


    - Ngư i, hay tờổ chức tham gia vào các quan hệ buôn bán xuất – nhập khẩu qua biên giới
    hoặc tham gia mạng thanh toán quốc tế .có quan hệ thanh toán tuân theo các nguyên tắc
    giao dịch trên tài khoản vãng lai cho phép chuyển đổi tự do ngay cả khi không có sự đồng
    nhất về đồng tiền giữa các bên tham gia .Đó là “tài chính” tự do ở cấp độ thoảướ c – Tự do
    hoá tài khoản vãng lai chủ yếu phản ánh mức độ tự do hoá quan hệ tỷ giá hoặc quan hệ về
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...