Luận Văn Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật V

Thảo luận trong 'Luật Học' bắt đầu bởi Ác Niệm, 13/12/11.

  1. Ác Niệm

    Ác Niệm New Member

    Bài viết:
    3,584
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lời mở đầu
    Hai người nam nữ khi chưa bước vào hôn nhân, họ là những người có tài sản riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình. Khi bước vào hôn nhân, điều đó đã khác.
    Trong thời kì hôn nhân, hai người phải ràng buộc với nhau bởi rất nhiều bổn phận, nghĩa vụ và quyền lợi. Lợi ích của họ vì thế đã hòa làm một để trở thành một thứ có tên là lợi ích gia đình. Thời trước, khi xác lập, thay đổi, chấm dứt một giao dịch, họ chỉ nhân danh lợi ích gia đình. Tài sản chung là thứ cần có để tạo điều kiện cho việc nhân danh lợi ích gia đình khi tham gia các giao dịch. Suy cho cùng, tài sản chung hay là tài sản riêng của vợ, chồng cũng phải được khai thác để nhằm bảo đảm cho sự tồn tại, duy trì và phát triển của gia đình. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, diện mạo của gia đình đã thay đổi đáng kể, chức năng kinh tế của gia đình đã chuyển từ sản xuất sang tiêu dùng. Cùng với điều đó việc mỗi người có đủ tài sản riêng để đặt cơ sở vật chất cho các hoạt động nghề nghiệp và các giao dịch do mình thực hiện không phụ thuộc nhiều vào người còn lại là rất cần thiết. Qui định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là một giải pháp cho vấn đề đó trong bối cảnh chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình hiện nay là chế độ cộng đồng tạo sản.
    Trong thời gian gần đây, số lượng án phải giải quyết về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân trong cả nước đang có chiều hướng gia tăng: năm 2004 là 159 vụ, năm 2005 là 398 vụ, năm 2006 là 404 vụ, năm 2007 là 452 vụ[1]. Qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã cụ thể hơn so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 song vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần có quan điểm thống nhất về lí luận cũng như thực tiễn xét xử. Hơn nữa còn có một vấn đề là việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân thường được coi là đi kèm với những mâu thuẫn về tình cảm của vợ chồng, vì thế mọi người nghĩ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân là một việc không tốt. Điều đó cho thấy cần thiết phải có sự nghiên cứu sâu về vấn đề chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân của vợ chồng cũng như có giải pháp cho việc chia tài sản chung mà vẫn có thể giữ được hạnh phúc gia đình. Chính vì lí do đó mà người viết chọn đề tài “Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân” để nghiên cứu.
    Thông qua việc nghiên cứu đề tài, người viết muốn đề cập, phân tích toàn bộ các qui định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và chứng minh được tính hợp pháp cũng như sự hợp lí của việc tồn tại một thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân với nội dung, hình thức và phạm vi phù hợp, kiến nghị về việc cụ thể hóa thỏa thuận này để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng nó.
    Hiện tại, việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân được nhiều tác giả đề cập đến trong nhiều công trình, bài viết, tuy nhiên chỉ là đề cập tới nó như một phần của một vấn đề khác hoặc là chỉ đề cập tới một phần của nó. Việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng cũng được nhiều tác giả đề cập tới nhưng là đề cập dưới góc độ gắn nó với chế độ tài sản ước định và cho rằng nó không phù hợp với qui định pháp luật hiện hành. Việc phân tích toàn bộ các qui định pháp luật về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân, tóm tắt về một số chế định tương tự trong pháp luật của các nước và chứng minh tính hợp pháp của một loại thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân sẽ là điểm mới của đề tài.
    Nội dung chính của đề tài được kết cấu thành 3 chương với 13 mục lớn. Cụ thể:
    Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân;
    Chương 2: Qui định của pháp luật hiện hành về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân;
    Chương 3: Vấn đề thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam.


    LỜI KẾT
    Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân hay thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân có lẽ hơi xa lạ với những người có nếp nghĩ và quan niệm “truyền thống”, có thể họ cho rằng như thế là trái với đạo lí của người Việt, là không phù hợp với văn hóa của người Việt. Điều này khiến người viết nhớ tới truyền thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ”, cuộc hôn nhân đầu tiên của dân tộc Việt Nam, cuộc hôn nhân của hai người đã sinh ra đồng bào Việt Nam; trong cuộc hôn nhân đó, tổ phụ và tổ mẫu của chúng ta không những đã phân định về tài sản: một người lên rừng, một người xuống biển, mà thậm chí còn phân định về quyền nuôi con: năm mười người con theo cha, năm mươi người con theo mẹ. Thỏa thuận về tài sản trong thời kì hôn nhân, theo người viết, không phải là không có một mối liên hệ nào với truyền thống.
    Từ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là cả một bước tiến dài. Chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đã được qui định trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 nhưng việc áp dụng nó trong thời gian Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực là vô cùng hạn chế, đến bây giờ việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân mới có thể nói là đã được áp dụng rộng rãi hơn. Có lẽ cũng như vậy việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng như đã được đề cập trong bài viết tuy có hợp pháp nhưng việc áp dụng nó cũng sẽ là một vấn đề còn nằm trong tương lai, tuy nhiên người viết tin tưởng với tốc độ phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại, thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân sẽ trở nên phổ biến và hữu ích cho nhiều người.
    Đề tài “Từ chia tài sản chung đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân” đã được hoàn thành với những nội dung chủ yếu sau:
    - Khái quát được khái niệm, đặc điểm, vai trò của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân;
    - Khái quát về các chế định chia tài sản chung trong các qui định pháp luật của Việt Nam qua các thời kì và phân tích toàn bộ các qui định pháp luật hiện hành để thấy được hướng mở rộng của chế định này;
    - Khái quát về một số chế định tương tự trong pháp luật của một số nước trên thế giới, để thấy được việc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là phù hợp với xu hướng hiện nay;
    - Đưa ra và chứng minh tính hợp pháp và hợp lí của thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đồng thời kiến nghị về việc cụ thể hóa thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thời kì hôn nhân để việc áp dụng nó được dễ dàng và phổ biến.
    ________________________________________
    [1] Theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình (thống kê theo báo cáo của các tòa sơ thẩm trong cả nước) – tài liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp – Tòa án nhân dân tối cao.
    [2] Khoản 7 điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000
    [3] Nguyễn Văn Cừ, Thời kì hôn nhân – căncứ xác lập tài sản chung của vợ chồng, Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 12 – 2006 (số 23), tr. 7 – 13
    [4] Sẽ làm rõ điều này ở các phần sau
    [5] Theo điều 226 Bộ luật Dân sự năm 2005 việc chia tài sản chung là một trong số các căn cứ làm chấm dứt sở hữu chung
    [6] Xem điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986
    [7] Xem điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
    [8] Điều 27 Nghị định số 45- HĐBT có qui định: “Công chứng viên chứng nhận tài sản mà vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng hoặc được cho riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản đó được nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở đơn của người có tài sản đó”
    [9] Xem Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988
    [10] Điều 18 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 qui định: “Khi hôn nhân tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định ở Điều 42 của Luật này” (điều 42 có qui định về nguyên tắc chia tài sản khi li hôn).
    [11] Xem điều 16 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.
    [12] Theo thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án hôn nhân và gia đình (thống kê theo báo cáo của các tòa sơ thẩm trong cả nước) thì trong thời gian từ năm 1987 đến hết quí 3 năm 2004 chưa hề có vụ án chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân nào được thụ lí – tài liệu từ Vụ Thống kê tổng hợp – Tòa án nhân dân tối cao.
    [13] Nguyễn Hồng Hải , Vài nét về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Thái Lan, Tạp chí Luật học số 6 năm 1997, tr. 42 – 45
    [14] Xem điều 1474 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan
    [15] Xem điều 1488 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan.
    [16] Xem điều 1484 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan
    [17] Xem điều 1491 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan.
    [18] Xem điều 1598: 1598/17 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan.
    [19] Xem điều 1492 Bộ luật Dân sự và thương mại Thái Lan.
    [20] Dr. Ronald B. Standler, Prenuptial and postnuptial contract law in the USA, page 18
    [21] Xem luật hôn nhân của cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã sửa đổi năm 2001 (cái này bằng tiếng Trung ben ko biết post lên blog kiểu gì)
    [22] Điều 11 luật Công chứng của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có qui định về cơ cấu công chứng việc phân chia tài sản
    [23]Điều 18: Với một trong những tình hình dưới đây, tài sản thuộc về một bên vợ hoặc chồng:
    1, tài sản của một bên trước hôn nhân
    2, một bên vì thân thể có thương tích có được phí chữa trị, phí trợ cấp cuộc sống của người tàn tật.
    3, những tài sản mà trong di chúc hoặc văn bản hiến tặng xác định là chỉ thuộc về một bên vợ hoặc chồng.
    4, những nhu yếu phẩm chuyên dùng của một bên
    5, những tài sản khác mà cần thuộc về một bên
    [24] Điều 233. Xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp
    Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có được tài sản đó.
    [25] Cách chia giữa tài sản tạo ra và thu nhập hợp pháp trong thời kì hôn nhân chỉ là tương đối, và đây chỉ là cách chia của người viết, trong Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 thì các tài sản này được coi là thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng.
    [26] Xem điều 242 Bộ Luật dân sự năm 2005: Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc.
    [27] Điều 247 Bộ Luật dân sự năm 2005: Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
    [28] Khoa Luật trường Đại học Cần Thơ, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, tập 2, tr.15
    [29] Xem điều 9 và điều 13 Nghị định 70/2001/NĐ – CP ngày 3/10/2001.
    [30] Nguyễn Hồng Hải, Xác định tài sản của vợ chồng một số vấn đề lí luận và thực tiễn, Trường Đại học Luật Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ luật học, năm 2002, tr. 40.
    [31] Xem khoản 1 điều 32 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
    [32] Xem khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
    [33] Xem điều 13 và các điều từ 37 đến 42 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
    [34] Xem thêm về “Nội dung các loại chế độ tài sản của vợ chòng trong pháp luật” – TS. Nguyễn Văn Cừ , Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, phần IV chương I, NXB Tư pháp,2008
    [35] TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp 2008, tr. 232

    [36] Xem điều 224 Bộ luật Dân sự năm 2005

    [37] Điều 5 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

    [38] Có ý kiến cho rằng trong trường hợp này quyền khởi kiện của người thứ ba không được thừa nhận. ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, Tạp chí Luật học số 5 năm 2003, tr. 26-29

    [39] Khái niệm kinh doanh này được lấy tương tự như khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005.

    [40] Có ý kiến cho rằng nghĩa vụ dân sự riêng có thể là nghĩa vụ trong tương lai, tuy nhiên nếu như nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì có lẽ khó có thể coi là có lí do chính đáng.

    [41] Qui định tại khoản 1 điều 29 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

    [42] Xem điều 18 và điều 42 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986.

    [43] Xem khoản 1 và khoản 2 điều 6 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.

    [44] Khoản 2 điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.
    [45] TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp 2008, tr. 253.
    [46] TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lí luận về các phương pháp phân tích luật viết, NXB Tư pháp 2006, tr. 123.
    [47] Xem khoản 3 điều 9 Nghị định 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001
    [48] Xem khoản 1 điều 13 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001.

    [49] Có thể tài sản có giá trị không lớn về mặt vật chất nhưng lại có ý nghĩa về mặt tinh thần hoặc có thể một tài sản như thế thì có giá trị không lớn nhưng nhiều tài sản kiểu đó thì lại có giá trị lớn

    [50] Xem khoản 3 điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

    [51] ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, đã dẫn
    [52] ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, đd
    [53] ThS. Nguyễn Hồng Hải, Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân theo pháp luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành, đd
    [54] ThS. Nguyễn Phương Lan, Hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, Tạp chí Luật học số 6 năm 2002, tr. 22 – 27
    [55] Khoản 2 điều 7 Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật: “văn bản qui định chi tiết thi hành phải được soạn thảo cùng với dự án luật, pháp lệnh để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành khi luật, pháp lệnh có hiệu lực”.
    [56] TS. Phạm Duy Nghĩa, Nhân chuyện sửa “Luật làm Luật”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 119 tháng 3 năm 2008, tr. 29 – 31
    [57] Cũng có thể bị hạn chế theo qui định tại khoản 5 điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
    [58] Xem: Vợ chồng chia tiền, mất tình – VnExpress - Đọc báo, tin tức online 24h ngày 8/5/2007
    [59] Xem: Tiền bạc: mối đe dọa hạnh phúc gia đình, www.netlife.com.vn ngày 9/8/2008
    [60] Việc có tham gia hay không công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi đã tạo ra khá nhiều tranh luận, với tình hình hiện nay, việc có nên tham gia Công ước 78 (công ước Lahay về chế độ tài sản vợ chồng ngày 14/3/1978) sẽ là vô cùng khó khăn
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...