Thạc Sĩ Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu

    Phần mở đầu


    1. Lí do chọn đề tài


    5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm nay.Truyện ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài : Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985.

    2. Lịch sử vấn đề.

    2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975.


    Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” (Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006), tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét : Từ
    1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn

    luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường (Vương

    Trí Nhàn) ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động.

    Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng tác.Tuy nhiên, trong truyện ngắn (và cả truyện vừa) thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm: truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh (Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985).
    Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ (trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997) cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức.
    Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn (“Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991).


    Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến (“Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001). Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới.
    Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” (Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999): Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường.
    Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải: truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và

    viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường (“Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000).
    Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” (Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996) cho rằng: trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực.
    Tác giả Nguyễn Văn Long (“Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006) khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra

    nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để có các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại. Bên cạnh đó sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một thời gian duy nhất là những nét mới trong nghệ thuật biểu hiện. Tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế của thời đại.
    Nhà văn Ma Văn Kháng lại rất chú ý đến ngôn ngữ của truyện ngắn. Theo ông, đó là thứ ngôn ngữ vừa dung dị, vừa ma quái thêm, nó sử dụng đến sức mạnh tổng hợp của câu chữ (“Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992).
    Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời sống.Vì thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt cả thế kỷ XX (Bùi Việt Thắng “Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, H, 2000).
    2. 2. Những bài nghiên cứu về tác giả

    Các tác giả được chọn nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Ma Văn Kháng. Bởi trong những điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước, sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn (Lã Nguyễn, “Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật”, Tạp chí văn học số 2-1989).
    Tuy nhiên các tác giả Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng lại chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết. Với truyện ngắn, bên cạnh Nguyễn



    Minh Châu - người mở đường tinh anh và tài hoa - còn phải kể đến nhiều cây bút khác như: Thái Bá Lợi, Nhật Tuấn, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Bùi Hiển, Dương Thu Hương, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long, Lê Minh Khuê .
    Những bài viết, những ý kiến đánh giá về các tác giả này rất nhiều. Đặc biệt đáng chú ý là các ý kiến đông đảo của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như Phong Lê, Vân Thanh, Tôn Phương Lan, Huỳnh Như Phương, Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần Đình Sử, Trần Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Thiếu Mai, Bích Thu, Vương Trí Nhàn . Hầu hết các ý kiến chỉ dừng lại ở mức độ phân tích đánh giá sự thành công của từng tác giả. ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều nhau về cùng một tác giả, tiêu biểu là trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trên hành trình đổi mới xong trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Nhận xét một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, nhà văn Bùi Hiển băn khoăn về việc tác giả đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn (Nhiều tác giả, “Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu”, Văn nghệ 1985 số
    27 và 28). Tác giả Hà Xuân Trường thì cho rằng ông chỉ thành công một nửa.

    Hay trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của người đời có ý kiến cho rằng đã làm xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống chúng ta (Bích Thu, “Truyện ngắn Dương Thu Hương. Tạp chí Văn học . số 2. 1983) nhưng lại có ý kiến ủng hộ cách viết này dù cho ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả thậm chí là có phần ác quá. Song ta đã chấp nhận phong cách này, thì



    để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời (Vương Trí Nhàn trong “Văn học 1975-1985- Tác phẩm và dư luận”, Nxb hội nhà văn, 1997).
    Đúng là ở chặng đầu của hành trình đổi mới, các tác giả của văn xuôi nói chung và các cây bút viết truyện ngắn nói riêng mới chỉ khoan những mũi thăm dò đầu tiên trên những vùng đất mới. Có mũi thăm dò thành công nhưng cũng không ít thất bại. Song những nỗ lực của họ đã được ghi nhận. Vì chính họ đã góp phần chuẩn bị để tạo ra một vụ mùa lớn của thể loại ở giai đoạn sau.
    2.3. Những bài viết về tác phẩm

    Trong khoảng 10 năm (từ 1975 đến 1985) số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ. ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn. Có thể kể đến các tập truyện của các tác giả: Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1985); Xuân Thiều với Gió từ miền cát (1985); Dương Thu Hương với Những bông bần li (1981); Ma Văn Kháng với Ngày đẹp trời (1986); Lê Minh Khuê với Đoạn kết (1983), Một chiều xa thành phố (1986) và các tập truyện ngắn được giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ quân đội: Có một đêm như thế (1981), Thời gian (1985)
    Số lượng các bài viết này rất nhiều, đăng tải cả trên báo trung ương và báo địa phương dưới dạng thức điểm sách hoặc phê bình. Loại bài viết này phần lớn đều nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận về nội dung hoặc nghệ thuật, về những phương diện đổi mới của từng truyện ngắn hay tập truyện ngắn cụ thể. Qua đó góp phần khẳng định xu thế đổi mới tất yếu của thể loại cũng như của nền văn học Việt Nam trong giai đoạn này.

    Chung quy lại, qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu bao gồm các cuốn sách, các bài báo, các ý kiến trong các cuộc trao đổi, thảo luận, các cuộc hội thảo và một số luận văn, luận án đã có, chúng tôi thấy: nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề. Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn
    1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo sơ bộ, hoặc là những nhận định khái quát hay đi vào từng khía cạnh cụ thể của thể loại. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới.
    Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển của văn xuôi nói chung.



    Mục lục

    Phần mở đầu

    1. Lí do chọn đề tài 1

    2. Lịch sử vấn đề 3

    2.1. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975 . 3
    2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả 7

    2.3. Những bài viết về tác phẩm 8

    3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 9

    3.1. nhiệm vụ nghiên cứu . 9

    3.2. Đối tượng nghiên cứu 9

    4. Phương pháp nghiên cứu . 10

    5. Đóng góp của luận văn 10

    6. Cấu trúc của luận văn 10

    Phần nội dung

    Chương I

    Bối cảnh lịch sử

    và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985


    1. Bối cảnh lịch sử, xã hội 12

    1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh .12

    1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội . 13
    1.3. Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc . 14

    2. Tình hình phát triển của văn xuôi . 15

    3. Diện mạo của truyện ngắn 19

    3.1. Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người . 19


    3.2. Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng .35

    3.3. Thành tựu của truyện ngắn 37

    Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985
    1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975 . . 41

    Sự tiếp tục đề tài chiến tranh 41

    . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư . 51

    2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985 . 62

    2.1. Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư 63

    2.2. Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng . 65

    2.3. Sự trở lại của cảm hứng bi kịch . . 69

    2.4. cảm hứng phê phán 71

    2.5. Cảm hứng nhân văn .72

    Chương III

    Những đổi mới bước đầu

    trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985


    1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện .75

    1.1. Khái niệm và vai trò của cốt truyện 75

    1.2. Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau

    1975 76

    1.3. Các đặc điểm kết cấu cốt truyện . 80

    2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985 87

    Các kiểu nhân vật mới . 89

    1.5. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật . 96
    3. Nghệ thuật trần thuật .103

    3.1. Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật 103

    3.2. Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật . 107

    Phần kết luận 110

    Tài liệu tham khảo 113
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...