Tiểu Luận Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về “lợi nhuận

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài:
    Trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về “lợi nhuận


    I. Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:

    1. Quan điểm của chủ nghĩa trọng thương về vấn đề lợi nhuận:
    Chủ nghĩa trọng thương ra đời vào thời kỳ quá độ, nền kinh tế phong kiến bước vào thới kỳ suy đồi và nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu hình thành. Giai cấp tư sản tăng cường dùng những biện pháp bạo lực như xâm chiếm đất đai, trao đổi không ngang gía nhằm đẩy nhanh quá trình tích luỹ nguyên thuỷ Tư Bản. Bên cạnh đó trong lĩnh vực khoa học tự nhiên( cơ học, thiên văn học, địa lý .) đã có sư phát triển mạnh mẽ. Để biện hộ cho những hành vi của mình, giai cấp tư sản đã đưa ra học thuyết trọng thương.
    Các nhà kinh tế học của trường phái Trọng Thương đã đi tìm nguồn gốc của lợi nhuận trong lưu thông. Họ cho rằng:“Lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông trao đổi mua bán sinh ra nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều,mua rẻ bán đắt. Không một người nào được lợi mà không làm hại cho kẻ khác. Dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc khác. Trong trao đổi phải có một bên thua để bên kia được lợi.”
    Có thể thấy các nhà kinh tế học của trường phái Trọng Thương chưa thấy được nguồn gốc thực sự của lợi nhuận là xuất phát từ quá trình sản xuất. Mặc dù còn những sai lầm về cơ bản nhưng hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Trọng Thương đã tạo ra nhiều tiền đề kinh tế – xã hội cho các lý luận kinh tế thị trường sau này phát triển.

    2. Các quan điểm của trường phái cổ điển:

    a. Quan điểm của William Petty:
    W.Petty là nhà đại biểu nổi bật nhất của tư tưởng kinh tế Châu Âu trong thời kỳ tan rã của Chủ Nghĩa Trọng Thương. K. Mark đánh giá cao W. Petty, coi ông là người sáng lập ra Kinh Tế Học, Mark viết “ Khoa học cổ điển là toàn bộ mọi Khoa Học Kinh Tế kể từ W. Petty trở đi đã tìm hiểu cái hiện thực nội tại của các QHSX trong xã hội Tư Sản ”. Ông là người đầu tiên khởi xướng lý thuyết về giá trị lao động và phát triển lý thuyết này thành học thuyết giá trị lao động.
    Xuất phát từ lý luận này,W.Petty đã nghiên cứu về gía trị thặng dư, tuy chưa đi sâu nhưng ông đã nêu lên khá rõ nét về hai hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư là địa tô và lợi tức. Ông đã định nghĩa: “Địa tô Tư Bản Chủ Nghĩa là số chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất. Địa tô là một phần của lợi nhuận nhờ độ phì nhiêu của đất đai và vị trí canh tác”. Như vậy W. Petty đã thấy được địa tô chênh lệch một.
    Về lợi tức,trong tác phẩm “Bàn về tiền tệ ”, W. Petty cho rằng: “ Lợi tức cũng như tiền thuê ruộng đất, là số tiền trả cho việc nhịn ăn tiêu và thưởng cho sự mạo hiểm ”. Mức lợi tức phụ thuộc vào những điều kiện tự nhiên và tự phát.
    Từ lý thuyết địa tô và lợi tức, W.Petty đã cố gắng giải thích về giá cả ruộng đất. Ông khẳng định rằng giá cả ruộng đất phải được qui định một cách đặc biệt và gắn giá cả ruộng đất với mức địa tô. Nhưng ông đã sai lầm vì cho rằng giá cả ruộng đất bằng 20 địa tô/ năm. Có sai lầm này là do W.Petty chưa thấy được giá cả ruộng đất một mặt có quan hệ với địa tô, mặt khác có quan hệ với tỷ suất lợi tức. Ông chưa thấy giá cả ruộng đất chính là địa tô Tư Bản hoá.
    Tóm lại, mặc dù còn nhiều thiếu sót và còn chịu ảnh hưởng của Chủ Nghĩa Trọng Thương nhưng W.Petty đã có những bước tiến lớn khắc phục được những sai lầm cơ bản của Chủ Nghĩa Trọng Thương như: Đã thấy được lợi nhuận từ lĩnh vực sản xuất, nêu ra được mầm mống của lý luận về vấn đề bóc lột. Chính W.Petty đã đặt nền tảng ban đầu cho Kinh Tế học cổ điển ở nước Anh.

    b. Quan điểm của Adam Smith:
    A.Smith (1723 – 1790) là người mở ra giai đoạn mới trong sự phát triển của Kinh Tế Chính Trị Tư Sản. A.Smith đã xây dựng lý luận về lợi nhuận trên cơ sở lý luận về giá trị lao động. Ông cho rặng lợi nhuận là “khoản khấu trừ thứ hai ” vào sản phẩm của người lao động, chúng đều có chung nguồn gốc là lao động không được trả công của người công nhân. Một mặt ông gắn lợi nhuận với quá trình sản xuất, là kết quả của sự bóc lột, nhưng mặt khác ông đã phạm phải một sai lầm đó là cho rằng lợi nhuận được tạo ra trong lưu thông. Khi nói về lợi tức, ông xem lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà Tư Bản hoạt động bằng tiền đi vay phải trả cho chủ nợ để được sử dụng Tư Bản. Ông đã thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng Tư Bản tăng lên,vạch ra một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tỉ suất lợi nhuận với Tư Bản.
    Về địa tô, A.Mith chịu nhiều ảnh hưởng của trường phái Trọng Nông, ông đã thấy được địa tô và lợi nhuận có cùng nguồn gốc với nhau, đều là kết quả lao động của người khác. Địa tô là khoản khấu trừ đầu tiên vào sản phẩm người lao động còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai. Về mặt chất nó phản ánh quan hệ bóc lột.
    Tuy nhiên, A.Mith còn có những hạn chế về lý luận lợi nhuận như: Chưa nêu ra được lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận. Mặt khác ông không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên cho rằng Tư Bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lưu thông đều tạo ra lợi nhuận như nhau. Hơn nữa ông còn quan niệm lợi nhuận là số tiền trả cho chủ xí nghiệp về sự rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, ông cũng phủ nhận lý luận giá trị thặng dư.

    c. Quan điểm của David Ricardo:
    Nếu như A.Smith sống trong thời kỳ công trường thủ công phát triển mạnh mẽ thì D.Ricardo sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Đó là điều kiện khách quan để ông vượt được ngưỡng giới hạn mà A.Smith dừng lại. Theo Mác D.Ricardo là nhà tư tưởng của thời đại công nghiệp.
    D.Ricardo cho rằng: “ Lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà Tư Bản trả cho công nhân ”. Ông đã thấy được xu hướng giảm sút tỉ suất lợi nhuận và giải thích nguyên nhân của sự giảm sút nằm trong sự vận động biến đổi thu nhập giữa ba giai cấp: Địa chủ, công nhân và nhà Tư Bản. Ông cho rằng do qui luật màu mỡ đất đai ngày càng giảm, giá cả nông phẩm ngày càng tăng lên làm cho tiền lương công nhân và địa tô tăng theo còn lợi nhuận không tăng. Do đó “lợi nhuận có khuynh hướng tự nhiên giảm xuống ”. Như vậy theo ông địa chủ là người có lợi, công nhân không có lợi cũng như không bị hại còn nhà Tư Bản thì có hại vì tỉ suất lợi nhuận giảm xuống.
    Mặc dù có nhiều tiến bộ so với những học thuyết trước nhưng ông cũng vấp phải nhiều sai lầm như: ông đã giải về lợi nhuận căn cứ vào năng suất lao động, ông không phân biệt được giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Cũng xuất phát từ việc chưa phân biệt được tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư nên ông đã kết luận rằng tỷ suất lợi nhuận giảm là do tăng lương.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...