Tài liệu Triết học Trung Hoa thời Tiên Tần

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. Đặc điểm của triết học Trung Quốc

    Có lẽ do những nguyên nhân gì đó chúng ta chưa biết, chứ đâu phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nhà tư tưởng lớn của nhân loại thời thượng cổ đua nhau xuất hiện trong hai thế kỷ VI và V trước Tây lịch, ở tại ba nơi: Ấn Độ, Hi Lạp, Trung Hoa, ba cái nôi của ba nền văn minh lớn nhất còn tồn tại tới ngày nay.


    Đối với cái thế giới của chúng ta này và với cuộc sống con người chỉ có thể có hai thái độ: hoặc là phủ nhận, cho cái gì cũng là hư ảo hết, chỉ muôn thoát li đời sống hiện tại; hoặc là chấp nhận, cho thế giới này có thực, có thể và chỉ có thể tìm hạnh phúc trong cuộc đời hiện tại thôi, mà cuộc sống đáng truyền lại cho các thế hệ sau.


    Ấn Độ có thái độ thứ nhất; Trung Hoa và Hi Lạp có thái độ thứ nhì, không xuất thế mà nhập thế rất thực tế, không bàn về vấn đề siêu hình như Ấn, mà chú trọng tới nhân sinh, tới việc cứu đời.


    Một đặc điểm của triết học Trung Quốc là có tính cách nhân bản rất cao. Sinh trong thời loạn, triết gia Trung Hoa nào cũng tìm cách lập lại trật tự, và nhà nào cũng bàn về chính trị. Triết gia Hi Lạp cũng bàn về chính trị nhưng ít hơn mà chú ý tới khoa học hơn.


    Đặc điểm thứ nhì là Trung Hoa không có tôn giáo với một giáo chủ, những tăng lữ, những kinh kệ . điểm này tôi đã trình bày ở Chương IV-2C, thời Tây Chu.


    TƯ TUỎNG CHÍNH TRỊ - CÁC PHÁI


    Về tư tưởng chính trị thời Tiên Tần, chia làm hai phái:


    - Phái hữu vi, can thiệp vào đời sống của dân.


    - Phái vô vi, không can thiệp vào đời sống của dân.


    Phe hữu vi lại gồm hai chủ trương:


    - nhân trị, cho rằng tư cách (đạo đức, tài năng) của người cầm quyền quan trọng nhất; vua phải yêu dân, giáo hóa dân, can thiệp vừa phải vào đời sống của dân thôi;


    - pháp trị, trái lại bảo nhà cầm quyền không cần có tư cách, hễ pháp luật nghiêm khắc, thưởng phạt công bằng thì một người không có tài đức cũng có thể trị nước được; phe này cũng có thể gọi là cực hữu vi, rất chuyên chế, can thiệp vào mỗi hành động của dân.


    Để độc giả thấy sự biến chuyển của tư tưởng chính trị thời Tiên Tần, tôi theo thứ tự thời gian, lập bảng các triết gia với năm sinh, năm tử, từ cuối đời Xuân Thu đến cuối đời Chiến Quốc với chủ trương của họ.


    Hữu vi/Cực hữu vi/Vô vi/Cực vô vi

    Khổng Tử (Lỗ) 551-479 Nhân trị

    Mặc tử (Lỗ) 480?-397? Nhân trị

    Dương tử (?) 440-380? Không thèm trị dân

    Lão tử (?) 430-340? còn trị dân

    Thương Ưởng (Vệ) 388-338 Pháp trị

    Mạnh tử (Lỗ) Nhân trị

    Trang tử (Tống) Không thèm trị dân

    Tuân tử (Triệu) Nhân trị

    Hàn Phi (Hàn) Pháp trị
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...