Tài liệu Triết học cổ đại Hy Lạp

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Triết học cổ đại Hy Lạp


    Khái lược những nét cơ bản về triết học Hy Lạp cổ đại

    Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo Ban-căng (thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng lớn ở ven biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm. Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân chia xã hội thành giai cấp , sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học. Sự xuất hiện của những trí thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học . Từ các yếu tố đó có thể khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu cầu thực tiễn và gắn với khoa học.
    Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độ chiếm hữu nô lệ với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là thế giới quan của giai cấp chủ nô thống trị, đồng thời nó còn là công cụ bảo vệ, duy trì địa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về mặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng, đề cao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trong những nền triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệm triết học được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện xảy ra trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơ khai, chất phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau này đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới quan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chia thành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau. Trong nội dung của bài tiểu luận này, chúng ta chỉ xem xét những thành tựu của nền triết học này thông qua sự đóng góp của 4 triết gia tiêu biểu: Hêraclit, Đêmôcrit, Platon và Arixtôt.

    I - Hêraclit:

    Hêraclit sinh ra ở Ephedơ - một trung tâm kinh tế, văn hoá nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Ông là người say mê nghiên cứu khoa học nhưng lại là người coi phương châm nghiên cứu của mình không dừng lại ở sự thông thái, hiểu biết nhiều mà quan trọng là phải biết được cái logos (bản chất, quy luật) của sự vật. Theo đánh giá của các nhà kinh điển macxit, ông là người xây dựng nên phép biện chứng trên lập trường duy vật, sáng lập ra phép biện chứng.

    Hêraclit đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Ông cho rằng lửa chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên. Ông phát biểu rằng: “Tất cả đều trao đổi với lửa và lửa trao đổi với tất cả như vàng thành hàng hoá và hàng hoá thành vàng”. Theo ông, mọi sự vật vật chất đều phát sinh từ lửa. Dưới tác động của dạng lửa, đất trở thành nước và nước trở thành không khí . và ngược lại, tuỳ theo độ lửa mà mọi vật có thể chuyển hoá từ trạng thái này sang trạng thái khác theo hai hướng: lửa - đất - nước - không khí (là con đường đi lên) hoặc chuyển hoá đi xuống theo hướng ngược lại. Heraclit cho rằng vũ trị không phải do một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào sáng tạo ra mà
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...