Thạc Sĩ Tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Thạc Sỹ Tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt

    MỞ ĐẦU

    1.1. Lý do chọn đề tài


    Khi nói về màu trắng của da người, trắng hồng, trắng tươi . được xem là
    những từ biểu thị thái độ đánh giá tích cực trong khi trắng hếu, trắng bệch,
    trắng nhởn . biểu thị điều ngược lại. Bằng chứng là trắng hồng, trắng tươi .
    không thể dùng để chê và trắng hếu, trắng bệch . không thể dùng để khen làn
    da của một người nào đó. Như vậy, rõ ràng trong tiếng Việt tồn tại những sự
    biểu đạt tốt nghĩa (ameliorative) và xấu nghĩa (pejorative).
    Tốt nghĩa và xấu nghĩa được giới ngôn ngữ học quan tâm dưới nhiều
    phương diện, có thể là dưới quan điểm ngôn ngữ học lịch đại hay ngôn ngữ
    học đồng đại, cũng có thể là dưới cái nhìn ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp
    học, hay ngữ dụng học.
    Trong tiếng Việt, nghiên cứu hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa hứa hẹn
    nhiều điều thú vị, đặc biệt là trong sự thể hiện của các danh từ đơn vị (DTĐV)
    và các vị từ trạng thái (VTTT) bởi vì theo đánh giá của chúng tôi, so với các
    loại đơn vị từ vựng khác, hai loại đơn vị này có sự biểu hiện phức tạp hơn cả
    về sắc thái ngữ nghĩa (STNN) theo từng loạt ngữ cảnh mà chúng xuất hiện.
    Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi sẽ đề cập đến tốt nghĩa và xấu
    nghĩa ở hai loại đơn vị từ vựng đã nêu dưới quan điểm ngôn ngữ học đồng
    đại, dưới góc độ ngữ nghĩa học từ vựng để có thể có một hình dung tương đối
    khái quát về STNN của các đơn vị từ vựng này trong tiếng Việt.

    1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

    Tốt nghĩa và xấu nghĩa là những khái niệm không xa lạ trong giới ngôn
    ngữ học. Chúng thường được chú ý dưới dạng danh từ: sự biến đổi tốt nghĩa
    (amelioration) và sự biến đổi xấu nghĩa (pejoration). 2

    Nói đến sự biến đổi tốt nghĩa và sự biến đổi xấu nghĩa, trước hết là nói
    đến những quá trình chuyển nghĩa mang tính chất lịch đại. Trong các công
    trình nghiên cứu ngôn ngữ học lịch sử, các tác giả thường đề cập đến hai quá
    trình này khi bàn về sự biến đổi ngữ nghĩa (semantic change). Hầu như không
    một công trình nào bàn về ngôn ngữ học lịch sử lại không bàn về quá trình
    chuyển nghĩa, và nếu đã bàn về quá trình này thì nhất định sẽ không bỏ qua
    quá trình biến đổi tốt nghĩa và biến đổi xấu nghĩa dưới hai dạng thức: mở
    rộng và thu hẹp nghĩa. Chúng ta có thể nhận ra điều này qua các công trình
    nghiên cứu theo quan điểm lịch đại: Introduction to Historical Linguistics
    (1972) của Anthony Arlotto, Historical Linguistics (1979) của Theodora
    Bynon, Historical Linguistics: An Introduction (1992) của Winfred Lehmann,
    Understanding Language Change (1994) của April M. S. McMahon, An
    Introduction to Historical Linguistics (1997) của Terry Crowley, Language
    History - An Introduction (2000) của Andrew L. Sihler, An Approach to
    Semantic Change (2003) của Brian D. Joseph and Richard D. Janda
    Về sự biến đổi xấu nghĩa, April M.S. McMahon đã lấy một ví dụ tiếng
    Pháp maitresse (bà chủ nhà), từng có nghĩa là “cô dâu”. Tương tự, sely
    (thiêng liêng) đã biến đổi nghĩa thành “ngớ ngẩn”, và từ tiếng Pháp crétin đã
    chuyển nghĩa từ “sùng đạo Cơ Đốc” thành “ngu ngốc”. Tác giả cũng đã lấy từ
    tiếng Anh cổ cniht làm ví dụ cho sự biến đổi tốt nghĩa. Nghĩa gốc của nó là
    “người hầu”, nhưng tiếng Anh hiện đại có nghĩa là “hiệp sĩ”.
    Tốt nghĩa và xấu nghĩa mang tính phổ quát cho mọi ngôn ngữ chứ không
    giới hạn ở một ngôn ngữ nào. Có lẽ vì vậy mà vấn đề này được nghiên cứu
    trong một phạm vi rộng ở nhiều ngôn ngữ: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha,
    tiếng Nga, tiếng Italia . Trong công trình A History of the Spanish Language
    (2002), Ralph Penny có bàn về những hậu tố xấu nghĩa trong tiếng Tây Ban
    Nha kèm theo những ví dụ rất thú vị. Chẳng hạn hậu tố -aco trong những từ 3

    libraco (cuốn sách cũ mục nát), pajarraco (con chim xấu xí) hay hậu tố -
    ajo trong từ cintajo (dải ruy băng loè loẹt), trapajo (giẻ rách) John J.
    Kinder và Vincenzo M. Savini trong Using Italian: A Guide to Contemporary
    Usage cũng đã đề cập đến những hậu tố xấu nghĩa tiếng Italia. Chẳng hạn như
    hậu tố -accio (hay -azzo) trong những từ libraccio (cuốn sách dở tệ),
    ragazzaccio (cậu bé thô lỗ), coltellaccio (con dao lớn nguy hiểm)
    Nhìn chung, khi bàn về tốt nghĩa và xấu nghĩa, các tác giả chủ yếu xem
    xét chúng như một phần của quá trình chuyển nghĩa dưới quan điểm của ngôn
    ngữ học lịch đại.
    Trong tiếng Việt, hầu như chưa có công trình nào tập trung bàn về vấn
    đề này. Đáng kể nhất là các công trình của Nguyễn Ngọc Trâm [65], Chu
    Bích Thu [11] và Nguyễn Thị Bảo [74].
    Khi đi sâu tìm hiểu bản chất ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị tâm lí - tình
    cảm trong tiếng Việt, Nguyễn Ngọc Trâm đã đề cập đến tính chất tích
    cực/tiêu cực của chúng. Luận án mô tả cấu trúc ngữ nghĩa điển hình của 19
    nhóm vị từ tâm lí - tình cảm cơ bản của tiếng Việt (vui - buồn, tự hào - xấu
    hổ, thoả mãn, chán, giận, tiếc, thương, thích ). Chẳng hạn, nhóm vị từ vui -
    buồn được tác giả mô tả như sau:
     Trạng thái tâm lí - tình cảm tích cực/tiêu cực
     Cho rằng sự việc xảy ra phù hợp/không phù hợp với yêu cầu,
    nguyện vọng của mình.
    Có thể nói, công trình của Nguyễn Ngọc Trâm khai thác một cách hiệu
    quả bản chất ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm vị từ tâm lí - tình cảm tiếng
    Việt, trong đó có chú ý đến thành phần đánh giá, một trong những thành phần
    ngữ nghĩa quan trọng của loại đơn vị này.
    Cũng như Nguyễn Ngọc Trâm, Chu Bích Thu đặc biệt chú ý khai thác
    thành phần đánh giá khi nghiên cứu ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại. 4

    Tác giả chỉ ra hai bộ phận trong cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt: bộ
    phận miêu tả và bộ phận đánh giá.
    Theo Chu Bích Thu, nghĩa của các tính từ kiểu như đẹp, xấu, hay, dở
    có thể được phân tích:
    Đẹp:
    - Có hình thức
    - Gây cảm giác dễ chịu
    - Phù hợp với ý thích
    Hay:
    - Có âm thanh, kỹ thuật
    - Gây cảm giác dễ chịu
    - Phù hợp với ý thích
    Và cấu trúc nghĩa của chúng có thể khái quát thành ba thành tố:
    1. Có thuộc tính nào đó tác động vào giác quan
    2. Gây cảm giác nào đó
    3. Đánh giá tác động do cảm giác gây nên
    Trong ba thành tố ngữ nghĩa trên, thành tố (1) biểu thị phạm trù thuộc
    tính của bản thân sự vật (hoàn toàn mang tính chất khách quan); thành tố (2)
    biểu thị phản ứng của con người trước tác động của thuộc tính sự vật (vừa
    mang tính khách quan, vừa mang tính chủ quan) và thành tố (3) biểu thị thái
    độ của con người đối với thuộc tính của sự vật qua sự tác động của thuộc tính
    ấy vào giác quan của mình (hoàn toàn mang tính chất chủ quan).
    Chu Bích Thu áp dụng quan điểm này một cách nhất quán khi miêu tả
    đặc trưng ngữ nghĩa của các tính từ tiếng Việt tiêu biểu trong luận án của
    mình.
    Khi bàn về ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
    (đối chiếu với tiếng Anh), Nguyễn Thị Bảo cũng đã xét đến tiêu chí tích cực, 5
    tiêu cực, trung hoà về ngữ nghĩa và đưa ra những phân tích khá thú vị. Theo
    tác giả, đa số từ ngữ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt và tiếng Anh đều
    thiên về nghĩa tiêu cực, chẳng hạn như “bò”, “cáo”, “lợn”, “chó”, “vịt”,
    “chuột”, “ếch”, “mèo”, “ốc”, “rắn”, “ruồi” Số lượng từ ngữ thiên về nghĩa
    tích cực rất ít: “ngựa”, “phượng”, “rồng” Nghĩa tích cực, tiêu cực hay trung
    hoà của các đơn vị này do văn hoá của mỗi dân tộc quy định.
    Nhìn chung, mặc dù đã chú ý đến hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa
    trong tiếng Việt như một thành phần quan trọng trong ngữ nghĩa của từ nhưng
    các tác giả chỉ gói gọn vấn đề trong một phạm vi hẹp, chẳng hạn như trong
    một nhóm từ mà thôi.

    1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    1.3.1. Đối tượng nghiên cứu


    Do khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi tạm chưa khảo sát
    hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng Việt ở góc độ ngữ dụng học mà
    chỉ xem xét ở góc độ ngữ nghĩa học từ vựng, trên quan điểm ngôn ngữ học
    đồng đại, trong đó chú ý đến sự kết hợp của từ trong ngữ cảnh.

    1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

    Luận văn nghiên cứu STNN trong hai bộ phận từ loại cơ bản của tiếng
    Việt: DTĐV và VTTT.

    1.4. Phương pháp nghiên cứu

    Trong luận văn của mình, người viết sử dụng các phương pháp nghiên
    cứu sau:

    1.4.1. Phương pháp phân tích phân bố

    Đây là phương pháp vô cùng quan trọng trong việc xác định STNN của
    các đơn vị từ vựng tiếng Việt. Thông qua các kết hợp của từ trong các loạt 6

    ngữ cảnh khác nhau, chúng ta có thể nhận ra STNN chứa đựng trong từ cũng
    như những biến đổi ngữ nghĩa (nếu có) qua các loạt ngữ cảnh nhất định.

    1.4.2. Phương pháp thống kê ngôn ngữ

    Luận văn sử dụng phương pháp này để thống kê số lượng các tiểu loại
    DTĐV và VTTT dựa trên STNN tốt, xấu, trung hoà cũng như khả năng kết
    hợp của chúng. Bên cạnh đó, việc khảo sát mối quan hệ giữa vỏ ngữ âm và
    STNN của các yếu tố chỉ mức độ cao theo sau VTTT cũng cần đến phương
    pháp này.

    1.4.3. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ

    Để thực hiện có hiệu quả đề tài này, vấn đề miêu tả ngữ nghĩa các đơn
    vị, đặc biệt là các đơn vị có biểu hiện phức tạp về STNN là việc làm vô cùng
    cần thiết. Vì vậy, phương pháp miêu tả ngôn ngữ cũng được chúng tôi lưu ý ở
    đây.

    1.4.4. Phương pháp so sánh đối chiếu

    Ở một vài luận điểm, luận văn có sử dụng phương pháp so sánh đối
    chiếu để thấy sự tương đồng và khác biệt giữa tốt nghĩa và xấu nghĩa trong
    tiếng Việt và trong các ngôn ngữ khác.

    1.5. Tư liệu nghiên cứu

    Vì luận văn cần đến một số lượng ngữ cảnh đủ lớn để đảm bảo tính
    chính xác cho việc xác lập các mức độ STNN của từng đơn vị từ vựng nên
    việc thu thập tư liệu từ nhiều nguồn là vô cùng cần thiết.
     Nguồn tư liệu chủ yếu là các loại từ điển (từ điển tiếng Việt, từ điển đồng
    nghĩa tiếng Việt, từ điển từ láy, từ điển từ đồng nghĩa ), trong đó Từ điển
    tiếng Việt (2002) do tác giả Hoàng Phê chủ biên được xem là nguồn tư liệu
    chính. 7

     Các văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ khác nhau cũng được xem là
    nguồn tư liệu quan trọng của luận văn.

    1.6. Đóng góp của luận văn

    1.6.1. Về mặt lý luận


    Từ những tiền đề lý thuyết về ngữ cảnh, chúng tôi khái quát một phương
    pháp phân tích STNN dựa trên ngữ cảnh nhằm xác lập STNN của các đơn vị
    từ vựng tiếng Việt. Theo đó, phân loại và miêu tả STNN của hai bộ phận
    DTĐV và VTTT tiếng Việt dựa theo phương pháp này là đóng góp chủ yếu
    của luận văn.

    1.6.2. Về mặt thực tiễn

    Luận văn nghiên cứu hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong hai loại
    đơn vị từ vựng tiếng Việt (DTĐV và VTTT) trên phương diện đồng đại, dưới
    góc độ ngữ nghĩa học từ vựng, từ đó hình thành cái nhìn bao quát về STNN
    của các đơn vị từ vựng này, giúp người bản ngữ hiểu rõ hơn ngôn ngữ mẹ đẻ
    của mình đồng thời góp phần giúp học viên nước ngoài có thể dễ dàng hơn
    khi sử dụng các đơn vị từ vựng vốn được xem là tinh tế và khó phân biệt
    trong quá trình học tiếng Việt.

    1.7. Bố cục của luận văn

    Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương.
    Chương một đề cập đến những vấn đề lý thuyết cơ bản như các thành phần
    nghĩa, các phương pháp phân tích ngữ nghĩa, STNN của các đơn vị từ vựng,
    từ đó đúc kết nên phương pháp nhận diện STNN trong các đơn vị từ vựng
    tiếng Việt của luận văn. Dựa trên phương pháp nhận diện này, chương hai
    xác lập và miêu tả STNN của hai tiểu loại DTĐV tiếng Việt (DTĐVKCL và
    DTĐVCL). Tương tự, chương ba phân loại các VTTT tiếng Việt dựa trên
    STNN của chúng kèm theo những miêu tả cụ thể. Bên cạnh đó, chương này 8

    còn đề cập đến các vấn đề: 1. STNN của những từ láy xuất phát từ VTTT và
    vai trò của các yếu tố cộng thêm vào VTTT trong những kết hợp này. 2. Mối
    quan hệ giữa ngữ âm và STNN của những từ chỉ mức độ cao theo sau các
    VTTT. 3. STNN của những kết hợp giữa một VTTT và một vị từ chỉ hướng
    biểu thị một quá trình.
    Ngoài 121 trang chính văn, luận văn dành 166 trang cho 4 phụ lục.


     
Đang tải...