Chuyên Đề Tổng quan quá trình cải cách tư pháp ở việt nam

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TỔNG QUAN QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
    Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở Việt Nam, CCTP được đặt ra như một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu với mục tiêu đảm bảo sự nghiêm minh của công lý, giữ vững và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Ngay từ khi giành được chính quyền, trong bản Hiến pháp năm 1946 đã có chương VI quy định riêng về cơ quan tư pháp bao gồm Toà án tối cao, các Toà án phúc thẩm, các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp. Hiến pháp 1946 đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết phân quyền mà thể hiện rõ nhất là đã có chương quy định riêng về cơ quan tư pháp và mối quan hệ của cơ quan này với Nghị viện và hệ thống cơ quan hành chính.
    Theo Hiến pháp năm 1946, cơ cấu của Toà án nước ta thời kỳ này có những điểm khá đặc thù, không hoàn toàn giống như quan niệm về cơ quan tư pháp theo nghĩa hẹp ở trên. Theo Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, Sắc lệnh số 31 ngày 19/3/1947 sửa đổi Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1946 về tổ chức Tư pháp công an, Sắc lệnh số 258-SL quy định cách tổ chức Công an quân pháp trong thời kỳ kháng chiến, thì trong cơ cấu tổ chức của Toà án không chỉ có thẩm phán xét xử (thẩm phán ngồi) mà còn có thẩm phán buộc tội (thẩm phán đứng) được gọi là Chưởng lý, Biện lý, Phó Biện lý giữ vai trò công tố viên. Trong quân đội, công an quân pháp được giao thẩm quyền thi hành bản án của Toà án binh. Như vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên xây dựng nền tư pháp non trẻ thì nội hàm khái niệm cơ quan tư pháp theo Hiến pháp năm 1946 đã được thu nhận thêm những thành tố khác như cơ quan công tố, điều tra, thi hành án[1].
    Lần CCTP đầu tiên là năm 1950, vào thời kỳ đó, Bộ Tư pháp đã trình lên Chủ tịch Hồ Chí Minh dự án Sắc lệnh Cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng với những mục đích rất rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được “dân chủ hoá”, “để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng cần được hợp lý và giản dị hơn”. Để thực hiện mục tiêu này, ngày 22/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, đây là lần CCTP đầu tiên.
    Tiếp đó, vấn đề CCTP tiếp tục được thực hiện ở các mức độ khác nhau. các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 không có quy định cụ thể về cơ quan tư pháp. Theo mô hình tổ chức cơ quan tư pháp của các nước XHCN, các bản hiến pháp về sau này đã có sự thay đổi về cấu trúc, theo đó không còn chương quy định riêng về cơ quan tư pháp mà thay vào đó là chương quy định về TAND và VKSND.
    Trước yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân, vấn đề CCTP được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt từ năm 1997 đến nay. Thực hiện chủ trương CCTP, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương hết sức quan trọng về cải CCTP. Thực hiện chủ trương CCTP, Nhà nước đã tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật trên cơ sở thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, trong đó phải kể đến Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức TAND, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND, Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự năm 1993. Đây là những cơ sở pháp lý đánh dấu một bước tiến quan trọng của công cuộc CCTP, trong đó trọng tâm là hoạt động của Toà án.

    [HR][/HR][1] Xem: Phạm Văn Hùng, Tòa án và vấn đề cải cách tư pháp, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 135, tháng 11/2008.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...