Tiểu Luận Tổng quan mô hình camels

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. NHỮNG TIẾP CẬN VỀ MÔ HÌNH CAMELS


    Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS là một phương pháp hoặc một công cụ dùng để phân tích tình hình hoạt động và rủi ro của ngân hàng.
    Phân tích theo chỉ tiêu CAMELS dựa theo sáu yếu tố cơ bản được sử dụng để đánh giá hoạt động của một ngân hàng : đó là Mức độ an toàn vốn, Chất lượng tài sản có, Quản lý, Lợi nhuận, Thanh khoản và Mức độ nhạy cảm thị trường ( viết tắt bằng tiếng anh là CAMELS).
    1. Capital Adequacy – Mức độ an toàn vốn


    Mức độ an toàn vốn thể hiện số vốn tự có để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng càng chấp nhận nhiều rủi ro (ví dụ như trong phạm vi một danh mục cho vay) thì càng đòi hỏi phải có nhiều vốn tự có để hỗ trợ hoạt động của ngân hàng và bù đắp tổn thất tiềm năng liên quan đến mức độ rủi ro cao hơn.
    * chỉ tiêu sử dụng để phân tích vốn:


    ã Cơ cấu vốn


    ã Chất lượng cổ đông có ảnh hưởng lớn


    ã Hệ số đòn bẩy tài chính L = tổng nợ phải trả/ vốn chủ sở hữu


    ã Hệ số tạo vốn nội bộ


    ã Chất lượng và khả năng tài chính của các cổ đông


    2. Asset Quality – Chất lượng tài sản vốn có


    Chất lượng tài sản có là nguyên nhân cơ bản dẫn đến các vụ đổ vỡ ngân hàng. Thông thường điều này xuất phát từ việc quản lý không đầy đủ trong chính sách cho vay – cả trước kia cũng như hiện nay. Nếu thị trường biết rằng chất lượng tài sản kém thì sẽ tạo áp lực lên trạng thái nguồn vốn ngắn

    hạn của ngân hàng, và điều này có thể dẫn đến khủng hoảng thanh khoản,


    hoặc dẫn đến tình trạng đổ xô đi rút tiền ở ngân hàng.


    3. Management – Quản lý


    Các chính sách về quản lý con người, các chính sách quản lý chung của tổ chức, các hệ thống thông tin, các chế độ kiểm soát và kiểm toán đều được xem xét một cách riêng rẽ để phản ánh toàn bộ chất lượng của hoạt động quản lý.
    Nhiều nhà phân tích chuyên nghiệp coi quản lý là yếu tố quan trọng nhất trong hệ thống phân tích CAMELS, bởi vì quản lý đóng vai trò quyết định đến thành công trong hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, các quyết định của người quản lý sẽ ảnh hưởng trự tiếp đến những yếu tố như:
    ã Chất lượng tài sản có


    ã Mức độ tăng trưởng của tài sản có


    ã Mức độ thu nhập


    ã Khả năng lập kế hoạch


    4. Earnings – Lợi nhuận


    Đây là nhân tố quan trọng của việc phân tích doanh thu và chi phí, bao gồm cả mức độ hiệu quả của hành động và chính sách lãi suất cũng như các kết quả hoạt động tổng quát được đo lường bằng các chỉ số. Cụ thể hơn, lợi nhuận là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá công tác quản lý và các hoạt động chiến lược của nhà quản lý thành công hay thất bại. Lợi nhuận sẽ dẫn đến hình thành thêm vốn, đây là điều hết sức cần thiết để thu hút thêm vốn và sự hỗ trợ phát triển trong tương lai từ phía các nhà đầu tư. Lợi nhuận còn cần thiết để bù đắp các khoản cho vay bị tổn thất và trích dự phòng đầy đủ. Bốn nguồn thu nhập chính của ngân hàng là:
    ã Thu nhập từ lãi

    ã Thu nhập từ lệ phí, hoa hồng


    ã Thu nhập từ kinh doanh, mua bán


    ã Thu nhập khác






    5. Liquidity – Thanh khoản


    Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngân hàng. Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn. Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn.
    Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản kém, chứ không phải là chất lượng tài sản có kém, mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các trường hợp đổ vỡ ngân hàng. Nói chung có thể đánh giá mức độ thanh khoản dựa trên khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của mình. Những yếu tố cần xem xét bao gồm mức độ biến động của tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng, tuân thủ với các chính sách thanh khoản nội bộ ngân hàng, nội dung, quy mô và khả năng sử dụng dự kiến của các cam kết cấp tín dụng.
    * Khả năng thanh khoản:

    ã Tỷ lệ thanh toán của tài sản = tài sản thanh khoản/ tổng tài sản (20- 30%)
    ã Hệ số đảm bảo tiền gửi = tài sản thanh khoản/ tổng tiền gửi (30-45%)


    ã Hệ số thanh khoản ngắn hạn = tài sản thanh khoản/ tổng nợ ngắn hạn


    (30%)


    6. Sensitivity to Market Risk – Mức độ nhạy cảm với rủi ro của thị trường
    Phân tích S nhằm đo lường bằng mức độ ảnh hưởng của của thay đổi về lãi suất hoặc tỷ giá đến giá trị của lợi nhuận hay vốn cổ phần. Phân tích S quan tâm đến khả năng của ban lãnh đạo ngân hàng trong việc xác định, giám sát, quản lý và kiểm soát rủi ro thị trường, đồng thời đưa ra những dấu hiệu, chỉ dẫn định hướng rõ ràng và tập trung.




    TÓM TẮT VỀ CAMELS


    Hệ thống phân tích CAMEL được áp dụng nhằm đánh giá độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng. An toàn được hiểu là khả năng của ngân hàng bù đắp được mọi chi phí và thực hiện được các nghĩa vụ của mình. Tiêu chí an toàn được đánh giá thông qua đánh giá mức độ đủ vốn, chất lượng tín dụng (tài sản có) và chất lượng quản lý. Khả năng sinh lời là việc ngân hàng có thể đạt được một tỷ lệ thu nhập từ số tiền đầu tư của chủ sở hữu hay không. Thanh khoản là khả năng đáp ứng được mọi nhu cầu về vốn theo kế hoạch hoặc bất thường. Cần luôn luôn lưu ý là các báo cáo tài chính không thể cung cấp đầy đủ mọi thông tin mà người phân tích muốn có để đánh giá mức độ an toàn, khả năng sinh lời và thanh khoản của ngân hàng. Do đó, cần kết hợp việc phân tích theo CAMEL với những đánh giá định tính của ngân hàng để có thể thu đuợc kết quả phân tích ngân hàng kỹ lưỡng và hữu ích.

    II. ỨNG DỤNG CAMELS TRONG CÔNG TÁC THANH TRA TRÊN CƠ SỞ RỦI RO VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG MỘT KHUNG NGHIỆP VỤ GIÁM SÁT TỪ XA TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TRA,GIÁM SÁT NGÂN HÀNG


    Điều kiện tiên quyết cho một hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng có hiệu quả, được Ủy ban BASEL xác định ngay tại nguyên tắc thứ nhất trong bộ 25 nguyên tắc cơ bản về thanh tra, giám sát ngân hàng, đó là: “Một hệ thống phân định trách nhiệm và có mục tiêu rõ ràng đối với từng bộ phận tham gia trong quá trình giám sát các ngân hàng. Mỗi bộ phận đó phải có nguồn lực hoạt động độc lập và phù hợp. Phải có một khung pháp lý phù hợp cho việc giám sát nghiệp vụ ngân hàng, bao gồm cả các điều khoản liên quan đến quyền hạn của các tổ chức ngân hàng và công tác giám sát hiện nay của chính họ”. Tinh thần cơ bản của nguyên tắc này cho thấy, một hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả cần 2 yếu tố quan trọng đó là: một khuôn khổ nghiệp vụ (hay còn gọi là một khung nghiệp vụ) và một khuôn khổ pháp lý. Nhưng khuôn khổ nghiệp vụ phải là yếu tố tiên quyết, trên cơ sở khuôn khổ nghiệp vụ của từng bộ phận tham gia trong quá trình thanh tra, giám sát mà xây dựng một khuôn khổ pháp lý. Đối với hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng không thể làm ngược lại là xây dựng một khuôn khổ pháp lý trước khi chưa có một khuôn khổ nghiệp vụ. Khuôn khổ nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng là toàn bộ các yếu tố tạo nên cấu trúc nghiệp vụ cho hệ thống thanh tra, giám sát, là mục tiêu cho tất cả các thanh tra hướng tới khi tham gia vào quá trình thanh tra giám sát dưới bất kỳ hình thức nào. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi chủ yếu đề cập tới một khung nghiệp vụ thuộc hoạt động giám sát từ xa, tất nhiên là một khuôn khổ nghiệp vụ giám sát từ xa đặt trong mối liên hệ với thanh tra

    tại chỗ. Chúng tôi cho rằng, cần ưu tiên trước hết cho việc xây dựng một


    khung nghiệp vụ giám sát từ xa vì:




    - Chức năng của giám sát từ xa là thu thập, xử lý thông tin liên tục và cảnh báo nên giám sát từ xa là trung tâm của quá trình thanh tra, giám sát. Vì vậy, một khuôn khổ nghiệp vụ cho hoạt động giám sát từ xa cũng đồng thời là định hướng cho các hoạt động thanh tra tại chỗ.


    - Do không phải tổ chức đoàn thanh tra, hoạt động giám sát từ xa có tính độc lập tương đối không bị hạn chế bởi các quy định của Luật Thanh tra, nên có thể xây dựng một khung nghiệp vụ giám sát từ xa theo hướng đổi mới - một khung nghiệp vụ có thể bao hàm được các yêu cầu của chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng, làm nền tảng cho đổi mới hoạt động thanh tra, giám sát.


    - Khuôn khổ nghiệp vụ hoạt động giám sát từ xa, còn là cơ sở để thiết lập hệ thống thông tin quản lý cho toàn bộ hoạt động thanh tra, giám sát. Nghĩa là chúng ta không thể xây dựng một hệ thống thông tin cho hoạt động thanh tra, giám sát khi chưa có một khuôn khổ nghiệp vụ. Từ khuôn khổ nghiệp vụ, chúng ta có thể xây dựng cơ sở dữ liệu cho từng phần riêng nhưng vẫn đảm bảo tính kế thừa cho việc kết nối thành hệ thống trong tương lai.










    1- Khuôn khổ nghiệp vụ giám sát từ xa trong mối quan hệ với thanh tra ngân hàng trên cơ sở rủi ro

    Có thể nói, rủi ro trong hoạt động ngân hàng đang dần được nhận thức đầy đủ hơn. Các ngân hàng thương mại đã biết chấp nhận rủi ro và từng bước có biện pháp phòng ngừa nhằm giảm thiểu rủi ro để thu được lợi nhuận tối đa ngay trong các hoạt động có nhiều rủi ro nhất. Và chính từ nhận thức được rủi ro mà trên thế giới đã hình thành nên xu hướng thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro trong hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng. Cùng với thanh tra trên cơ sở rủi ro, các thanh tra ngân hàng tại một số quốc gia đã thực hiện mô hình giám sát ngân hàng theo CAMELS. Điển hình là cơ quan giám sát ngân hàng Mỹ, CAMELS được các thanh tra sử dụng trong quá trình giám sát để tạo nên hệ thống cảnh báo và xếp hạng ngân hàng còn gọi là “CAMELS rating System”. Câu hỏi đặt ra là, thanh tra trên cơ sở rủi ro và giám sát ngân hàng theo CAMELS có quan hệ với nhau như thế nào? Có phải thanh tra trên cơ sở rủi ro thuộc hoạt động thanh tra tại chỗ, còn giám sát ngân hàng theo CAMELS thuộc hoạt động giám sát từ xa? Điều đó cần được giải đáp cụ thể trong thực tiễn hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng hiện nay. Chúng tôi cho rằng, trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng thì thanh tra trên cơ sở rủi ro là phương pháp - một phương pháp mới, khác hoàn toàn với phương pháp cũ là thanh tra tuân thủ. Phương pháp mới, cung cấp cho các thanh tra cái nhìn toàn diện về rủi ro trong hoạt động ngân hàng một cách bài bản có cơ sở lý luận rõ ràng, còn CAMELS là khuôn khổ nghiệp vụ để các thanh tra hướng tới. CAMELS không phải là tiêu chuẩn, mà chỉ là khung nghiệp vụ để thanh tra viên áp dụng các tiêu chuẩn vào đó để đánh giá về một tổ chức tín dụng (TCTD), chẳng hạn như tiêu chuẩn đánh giá về vốn, tiêu chuẩn đánh giá về tài sản Có . CAMELS có thể chứa đựng đầy đủ các yếu tố về rủi ro trong hoạt động của TCTD, nhưng là khuôn khổ nghiệp vụ; bản thân CAMELS tự nó không phản ánh được các tiêu chuẩn đánh giá về một ngân hàng, mà cần được tiến hành thông qua quá trình

    thanh tra, giám sát bằng phương pháp thanh tra mới, thay thế cho phương pháp thanh tra tuân thủ - một phương pháp đã bộc lộ những khiếm khuyết, không còn đáp ứng được yêu cầu cho hoạt động thanh tra, giám sát hiện nay. Sơ đồ 1 biểu diễn mối quan hệ giữa thanh tra trên cơ sở rủi ro và giám sát ngân hàng theo CAMELS trong quá trình thanh tra, giám sát đối với TCTD.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...