Luận Văn Tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị

Thảo luận trong 'Kế Toán - Kiểm Toán' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU


    Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm giữ một vai trò quan trọng trong công tác kế toán của doanh nghiệp. Vì hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách chính xác đầy đủ kịp thời sẽ tạo cơ sở cho các nhà quản lí ra quyết định kinh doanh đúng đắn. Thông qua chỉ tiêu về chi phí và giá thành sản phẩmcác nhà quản lí sẽ biết được nguyên nhân gây biến động chi phí và giá thành là do đâu và từ đó tìm ra biện pháp khắc phục và ra quyết định nên đầu tư sản xuất loại sản phẩm nào để thu được lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời góp phần quan trọng vào việc tăng cường quản trị doanh trong cơ chế thị trường.

    Để tiến hành sản xuất thì một yếu tố khách quan là nhà sản xuất bỏ ra các yếu tố chi phí về thù lao lao động, tư liệu lao động và đồi tượng lao động, từ đó hình thành nên chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.Trong công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm này lại nảy sinh những đòi hỏi và nhu cầu khác nhau trong việc tổ chức quản lý, kiểm soát chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau cần có những hình thức và phương pháp hạch toán riêng sao cho phù hợp với yêu cầu quản lý, từ đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất.

    Hiểu được ý nghĩa của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, thấy rõ được sự cần thiết cực kỳ quan trọng để đánh giá và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh giúp cho các nhà lãnh đạo có biện pháp tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và tăng cường quản trị doanh nghiệp.

    Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần SMC Composite, dưới sự hướng dẫn chu đáo của cô giáo Trần Thị Phượng cùng các thầy cô trong khoa và các cô chú, anh chị trong phòng kế toán tài chính của công ty em xin nghiên cứu đề tài: “Tổ chức công tác Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty cổ phần SMC Composite”.

    Bài luận văn gồm những nội dung sau:

    Phần I: Những lý luận chung về tổ chức Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại các doanh nghiệp công nghiệp.

    Phần II: Thực trạng tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần SMC Composite.

    Phần II: Một số nhận xét và phương hướng hoàn thiện công tác Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Composite.

    PHẦN I

    LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP.

    I. CHI PHÍ SẢN XUẤT.

    1. Khái niệm, ý nghĩa, đặc điểm của chi phí sản xuất.

    Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định ( tháng, quý, năm )

    Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản taọ nên quá trình sản xuất. Như vậy, để sản xuất hàng hóa, người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.

    Cần phân biệt giữa chi phí và chi tiêu, chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra trong một kỳ kinh doanh. Như vậy chỉ được tính là chi phí của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kỳ chứ không phải là mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán. Ngược lại, chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật liệu, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp bất kỳ dùng vào mục đích gì.

    Chi phí và chi tiêu, hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí và có những khoản chi phí phát sinh kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu. Sở dĩ có sự khác biệt như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch gía trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán của chúng.

    Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố giá cả luôn thương xuyên biến động thì việc tính toán chính xác đầy đủ và kịp thời chi phí sản xuất chẳng những là điều kiện cần thiết để quản trị gía thành mà còn nhằm xác định đúng chi phí phù hợp với giá cả thực tại tạo điều kiện cho công ty bảo toàn vốn theo yêu cầu của chế độ quản lý kinh tế hiện nay.

    2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh.

    Hạch toán chi phí là để cung cấp thông tin cho quản lý, khái niệm chi phí sản xuất rất phức tạp, trong khi người quản lý lại yêu cầu thông tin chi phí dưới nhiều góc độ khác nhau do đó đòi hỏi phải phân loại chúng. Phân loại chi phí một cách khoa học, hợp lý là một yêu cầu quan trọng trong công tác kế hoạch hoá, hạch toán và tính giá thành sản phẩm. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp gồm nhiều loại khác nhau về nội dung kinh tế, về thời điểm chi ra các khoản chi phí, tính chất chi phí . . .Hạch toán chi phí theo từng loại sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin là cơ sở tin cậy cho việc lập kế hoạch giảm chi phí. Vì theo yêu cầu của công tác và quản lý hạch toán, người ta phân loại chi phí sản xuất theo các phương thức khác nhau.

    2.1 . Phân theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh

    Căn cứ vào việc tham gia của chi phí vào hoạt động kinh doanh, toàn bộ chi phí được chia làm ba loại:

    - Chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh: bao gồm những chi phí liên quan đến hoạt động sản xuất, tiêu thụ và quản lý hành chính, quản trị kinh doanh.

    - Chi phí hoạt động tài chính: gồm những chi phí liên quan đến hoạt động về vốn và đầu tư tài chính.

    - Chi phí bất thường: gồm những chi phí ngoài dự kiến có thể do chủ quan hay khách quan mang lại.

    Cách phân loại này giúp cho việc phân định chi phí được chính xác, phục vụ cho việc tính giá thành, xác định chi phí và kết quả của từng hoạt động kinh doanh đúng đắn cũng như lập báo cáo tài chính nhanh chóng, kịp thời.

    2.2 Phân loại theo yếu tố chi phí.

    Theo qui định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố sau:

    - Yếu tố nguyên vật liệu: Bao gồm toàn bộ giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ dụng cụ sử dụng vào sản xuất kinh doanh ( loại trừ giá trị vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi.)

    - Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào qúa trình sản xuất kinh doanh trong kỳ.

    - Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương: Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả cho toàn bộ công nhân viên chức.

    - Yếu tố BHXH,BHYT, KPCĐ: phản ánh phần bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn trích treo tỷ lệ quy định tính theo tổng tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.

    - Yếu tố khấu hao tài sản cố định: phán ánh tổng số khấu hao tài sản cố định phải trích trong kỳ của tất cả tài sản cố định sử dụng cho sản xuất kinh doanh trong kỳ.

    - Yếu tố dịch vụ mua ngoàidata:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAAEAAAABAQMAAAAl21bKAAAAA1BMVEXh5PJm+yKVAAAAAXRSTlMAQObYZgAAAApJREFUCNdjYAAAAAIAAeIhvDMAAAAASUVORK5CYII=" class="mceSmilieSprite mceSmilie7" alt=":p" title="Stick Out Tongue :p">hản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.

    - Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.

    Theo cách phân loại này giúp ta biết được cơ cấu chi phí và tính chất nguyên thuỷ của chi phí, xác định được mức vốn lưu động cho doanh nghiệp.

    2.3 . Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.

    Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng. Theo qui định hiện hành, giá thành sản xuất ở Việt Nam gồm 3 khoản mục chi phí:

    -Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.

    -Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quĩ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn theo tỉ lệ với tiền lương phát sinh.

    -Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất.

    Ngoài ra khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lí doanh nghiệp và chi phí bán hàng.

    2.4 . Phân loại chi phí theo chức năng trong sản xuất kinh doanh.

    Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng mà chia chi phí sản xuất kinh doanh làm 3 loại:

    - Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: gồm những chi phí phát sinh kiên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng.

    - Chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ: gồm tất cả những chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ

    - Chi phí thực hiện chức năng quản lí: gồm các chi phí quản lí kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp .

    Cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, xác định trị giá hàng tồn kho, phân biệt được chi phí theo từng chức năng cũng như làm căn cứ để kiểm soát và quản lí chi phí.

    2.5 . Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí.

    Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kì. Chi phí sản phẩm là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua, còn chi phí thời kì là những chi phí làm giảm lợi tức trong một thời kì nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm đựơc sản xuất hoặc được mua nên được xem là phí tổn cần được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kì mà chúng phát sinh.

    2.6 . Phân loại chi phí theo phương pháp phân bổ chi phí vào giá thành.

    Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất được chia thành chi phí trực tiếp và gián tiếp:

    -Chi phí trực tiếp: là những chi phí sản xuất trực tiếp có liên quan trực tiếp đén sản xuất một loại sản phẩm, một công việc nhất định, có thể căn cứ vào số liệu, chứng từ kế toán qui nạp và phân bỏ trực tiếp cho các loại sản phẩm đó. Chi phí này bao gồm: nguyên vật liệu, tiền lương và bảo hiểm xã hội của công nhân sản xuất, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền.

    -Chi phí gián tiếp: là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, đòi hỏi phải phân bổ gián tiếp cho các đối tượng có liên quan theo các tiêu thức phân bổ khác nhau.

    Phân loại chi phí theo cách này giúp cho việc xác định phương pháp kế toán tổng hợp và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn, hợp lí. Ngoài ra còn có tác dụng trong việc tính toán giá thành kế hoạch cũng như hạch toán giá thành thực tế của đơn vị sản phẩm.

    2.7 . Phân loại chi phí theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành.

    - Chi phí cố định: là những chi phí không thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất thay đổi. Trong một giới hạn, qui mô nhất định chi phí này độc lập khách quan với kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp.

    - Chi phí biến đổi: là những chi phí thay đổi khi khối lượng sản phẩm sản xuất ra thay đổi như chi phí về nguyên vật liệu, chi phí công nhân. Ngoài ra chi phí biến đổi còn được chi tiết hoá thành chi phí biến đổi cùng tỉ lệ (chi phí khả biến tỉ lệ) và chi phí khả biến không cùng tỉ lệ ( chi phí khả biến cấp bậc).

    Nhờ cách phân loại này, người ta có thể đánh giá chính xác hơn tính hợp lí của chi phí sản xuất chi ra, mặt khác nó là cơ sở quan trọng để xác định sản lưọng sản xuất và xây dựng một chính sách giá cả hợp lí và linh hoạt đối với các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Phân loại theo cách này là cơ sở để thiết kế các mô hình chi phí khác nhau, xác định phương hướng nâng cao hiệu quả chi phí đối với từng loại.

    Mỗi doanh nghiệp, đều phải căn cứ vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp mình, kết hợp với nghiên cứu kết cấu chi phí sản xuất để xác định được phương hướng quản lí tối ưu, tối thiểu hoá chi phí sản xuất nhằm thực hiện mục đích cuối cùng là tăng sản lượng, hạ giá thành sản phẩm và chất lượng ngày một nâng lên. Điều này chỉ có thể thực hiện được với điều kiện quản lí một cách kinh tế, chặt chẽ hơn, hạch toán chính xác mọi chi phí sản xuất và hợp lí hoá quản lí. Một doanh nghiệp biết cách phân loại chi phí phù hợp với điều kiện hiện có tại doanh nghiệp, phù hợp với trình độ quản lí tất yếu sẽ có chính sách quản trị giá thành tốt nhất, tối ưu nhất.

    II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...